Wednesday, 17 October 2018

Dubai – Wikipedia tiếng Việt




Dubai
دبي

—  Tiểu vương quốc  —
Dubai


Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái: Burj Khalifa; Burj Al Arab; Palm Jumeirah ảnh chụp từ vệ tinh; Quần đảo Thế giới; Dubai Marina và đường Sheik Zayed.

Hiệu kỳ của Dubai
Hiệu kỳ
Huy hiệu của Dubai
Huy hiệu

Dubai trên bản đồ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Dubai

Dubai

Dubai trên bản đồ Asia
Dubai

Dubai

Vị trí của Dubai
Trực thuộc
sửa dữ liệu
Quốc gia
Bản mẫu:Country data Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất
Tiểu vương quốc
Dubai Dubai
Người sáng lập
Ubaid bin Saeed and Maktum bin Butti Al Maktoum
Thủ phủ
Dubai
Phân vùng
Chính quyền
 • Kiểu
Quân chủ chuyên chế
 • Tiểu vương
Mohammed bin Rashid Al Maktoum
 • Thái tử
Hamdan bin Mohammed Al Maktoum
Diện tích[1]
 • Tiểu vương quốc
4.114 km2 (1.588 mi2)
Dân số (12 tháng 5 năm 2018)
 • Tiểu vương quốc
~5.640.000
 • Vùng đô thị
3.052.089
 • 
Thành phần dân cư:
43,3% Ấn Độ
23% bản xứ
17% Pakistan
7,5% Bangladesh
4,2% Philippines
1,5% Sri Lanka
0,3% Mỹ
5,2% dân nước khác
Múi giờ
Giờ tiêu chuẩn của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UTC+4)
Thành phố kết nghĩa
Basra, Bogotá, Brisbane, Busan, Damas, Gold Coast, Kuala Lumpur, Jeddah, Khartoum, Karachi, Rio de Janeiro, Thượng Hải, Dundee, Bagdad, Barcelona, Beirut, Caracas, Cheb, Detroit, Frankfurt am Main, Gandhinagar, Genève, Granada, Quảng Châu, Hồng Kông, Hyderabad, Istanbul, Kish Island, Thành phố Kuwait, Los Angeles, Monterrey, Thành phố New York, Thành phố Ōsaka, Paris, Phoenix, Tehran, Tripoli, Vancouver, Ōsaka sửa dữ liệu
GDP
2016
Tổng cộng
108.14 tỷ USD[2]
Bình quân đầu người
28,396 USD
Trang web
Dubai Municipality
Dubai Tourism

Dubai (tiếng Ả Rập: دبيّ Dubayy, phát âm tiếng Việt: Đu-bai) là một thành phố và đồng thời là một trong bảy tiểu vương quốc của Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), nằm ở phía Nam của vịnh Ba Tư thuộc bán đảo Ả Rập. Trong cả nước, Dubai là tiểu vương quốc có dân số đông nhất và diện tích lớn đứng nhì sau Abu Dhabi.[3] Dubai và Abu Dhabi là hai tiểu vương quốc duy nhất có quyền phủ quyết những vấn đề chủ chốt mang tầm quan trọng quốc gia trong cơ quan lập pháp của đất nước.[4]

Tài liệu xưa nhất được ghi lại có đề cập đến Dubai là vào năm 1095, và dạng định cư đầu tiên dưới hình thức đô thị Dubai xuất hiện từ năm 1799. Dubai được bộ tộc Al Abu Falasa của bộ lạc Bani Yas thành lập chính thức vào đầu thế kỷ thứ XIX. Năm 1892, Vương quốc Anh dự định bảo hộ Dubai nhưng Dubai vẫn nằm dưới quyền cai trị của bộ tộc Al Abu Falasa. Chính vị trí địa lý của Dubai khiến cho vương quốc này giữ vai trò là một trung tâm thương mại quan trọng. Đến đầu thế kỷ XX, Dubai trở thành một cảng chủ chốt. Vào năm 1966, năm dầu khí được phát hiện ra, Dubai và tiểu vương quốc Qatar lập nên một đơn vị tiền tệ mới thay thế đơn vị cũ là đồng Rúp Vịnh Ba Tư. Nền kinh tế dầu khí du nhập vào vương quốc này một lượng nhân công nước ngoài khổng lồ, và nhanh chóng bành trướng thành phố này lên 300% kèm theo việc thu về những lợi nhuận dầu khí quốc tế. Vương quốc Dubai hiện đại đã hình thành sau khi Vương quốc Anh rời khỏi khu vực này vào năm 1971. Vào thời điểm này, Dubai cùng với Abu Dhabi và bốn tiểu vương quốc khác đã tạo nên Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Một năm sau đó, Ras al Khaimah tham gia liên bang này. Riêng Qatar và Bahrain vẫn giữ nền quốc gia độc lập.

Năm 1974, liên minh tiền tệ với Qatar đã giải thể và đồng UAE Dirham của Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất được phổ biến trên toàn liên bang. Năm 1979, một khu thương mại tự do được xây dựng xung quanh cảng Jebel Ali, cho phép các công ty nước ngoài nhập khẩu lao động và vốn xuất khẩu không hạn chế. Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990 đã khiến cho thành phố có một tác động tiêu cực về tài chính khi những nhà đầu tư rút tiền và những nhà kinh doanh rút khỏi việc buôn bán. Nhưng sau đó, với sự thay đổi về cơ chế chính trị, thành phố đã phục hồi và dần phát triển mạnh.

Ngày nay, Dubai đã nổi lên như một thành phố toàn cầu và một trung tâm kinh tế.[5] Mặc dù nền kinh tế của Dubai được xây dựng dựa theo khuôn mẫu chung hiện tại của UAE là dựa vào ngành công nghiệp dầu khí, nhưng tương tự như các quốc gia phương Tây khác, mô hình kinh doanh của vương quốc này hiện đang thao túng nền kinh tế, hiệu quả thấy được là doanh thu chính của Dubai chủ yếu là từ du lịch, các dịch vụ tài chính và bất động sản.[6][7][8] Gần đây, Dubai đã thu hút sự chú ý của thế giới thông qua các dự án xây dựng đổi mới có tính sáng tạo và những sự kiện thể thao lớn, đặc biệt là tòa nhà cao nhất thế giới, Burj Khalifa. Sự gia tăng chú ý này đã làm nổi bật lên các vấn đề về quyền lao động và nhân quyền liên quan đến lực lượng lao động chủ yếu đến từ vùng Nam Á và Philippines.[9] Do kết quả của suy thoái kinh tế toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2010, thị trường bất động sản của Dubai đã trải qua sự suy giảm lớn trong năm 2008 và 2009.[10]

Thành phố biển Dubai được đánh giá là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới, là trung tâm hàng không của khu vực. Ngoài ra còn là một thành phố quốc tế, thể thao, khách sạn, du lịch, triển lãm, tài chính, truyền thông, kinh tế, công nghệ, kiến trúc và xây dựng.[11]Ốc đảo Dubai Silicon là một công viên công nghệ vi điện tử hiện đang được phát triển ở Dubai. Mặc dù phần lớn diện tích trong 7,2 km2 của dự án phục vụ cho thương mại, dự án này vẫn có khu dân cư và cửa hàng bán lẻ.[12][13] Ốc đảo Dubai Silicon là sở hữu toàn quyền của Chính phủ Dubai, hoạt động như là một khu vực tự do dành cho các công ty chất bán dẫn, vi điện tử và công nghệ cao, cung cấp đầu mối thị phần các thiết bị công nghệ cho thế giới.[11][14]





Do thói quen truyền miệng của người dân, chỉ có vài ghi chép liên quan đến lịch sử văn hóa của UAE hoặc tiểu vương quốc thành phần của nó còn tồn tại. Văn học dân gian và thần thoại cũng không được ghi chép lại. Có nhiều tranh chấp về nguồn gốc tên gọi Dubai, một số người tin rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư, trong khi một số người tin rằng tiếng Ả Rập mới là nguồn gốc chính. Nhiều ý kiến đã được đề xuất là nguồn gốc của từ "Dubai". Ý kiến đầu tiên và có thể xảy ra nhất nói rằng Dubai là dạng tiếng Ả Rập của từ Ba Tư "Dopey" có nghĩa là "hai căn cứ". Một giả thuyết khác cho thấy từ này được sử dụng qua một câu tục ngữ Ả Rập là "Daba Dubai" (tiếng Ả Rập: دبا دبي), có nghĩa là "Họ đến với rất nhiều tiền." Theo Fedel Handhal, một nhà nghiên cứu về lĩnh vực lịch sử và văn hóa của UAE, từ "Dubai" có thể đã đến từ từ daba (tiếng Ả Rập: دبا) (một từ bắt nguồn từ từ Yadub, có nghĩa là "trườn"), liên quan đến những dòng chảy chậm của dòng biển Dubai Creek và con sông tại nơi đó. Nhà thơ kiêm học giả Ahmad Mohammad Obaid chỉ ra rằng Daba có nghĩa khác là châu chấu (tiếng Ả Rập: جراد) do môi trường phong phú của cào cào trong khu vực trước khi chúng bị trừ khử. Trong những năm 1820, lịch sử Anh quốc đề cập đến Dubai với tên gọi Al WASL. Rất ít bằng chứng có thể được tìm thấy về nguồn gốc của Dubai trừ tài liệu tham khảo và trong các câu chuyện kể của người cao tuổi ở Dubai.



Pháo đài Al Fahidi, xây dựng năm 1799, là công trình cổ xưa nhất ở Dubai - hiện nay là một phần trong bảo tàng Dubai

Khu Al Ras ở Deira, Dubai trong những năm 1960
Một phong cảnh điển hình ở phố cổ Al Bastakiya

Mặc dù công cụ bằng đá đã được tìm thấy ở nhiều nơi nhưng vẫn có rất ít thông tin về sự định cư đầu tiên của UAE do chỉ tìm được một vài nơi định cư. Nhiều thị trấn cổ xưa trong khu vực đã từng là trung tâm thương mại giữa hai thế giới phương Đông và phương Tây. Những tàn tích của một vùng đầm lầy ngập mặn cổ, tồn tại cách đây khoảng 7.000 năm trước Công nguyên, đã được phát hiện trong khi xây dựng đường ống thoát nước gần Thành phố Internet Dubai. Vào khoảng 5.000 năm trước, khi quá trình biển rút khỏi đất liền diễn ra, khu vực này bao phủ toàn cát và đã trở thành một phần bờ biển hiện nay của thành phố. Đồ gốm tiền Hồi giáo đã được tìm thấy từ thế kỷ thứ ba và thứ tư. Trước Hồi giáo, người dân trong khu vực này thờ thần Bajir (còn gọi là Bajar). Đế quốc Byzantine và Sassanian (Ba Tư) là hai đế chế quyền lực lớn của thời kỳ này, do người Sassanian nắm quyền kiểm soát phần lớn lãnh thổ. Sau khi Hồi giáo lan truyền khắp khu vực, chính quyền Hồi giáo Umayyad từ thế giới Hồi giáo phương Đông tiến hành xâm chiếm Đông Nam Ả Rập, sau đó đến Sassanian. Bảo tàng Dubai đã tiến hành các cuộc khai quật trong khu vực Al-Jumayra (ở Jumeirah) và tìm thấy một số đồ tạo tác từ thời Umayyad.

Tài liệu cổ nhất có đề cập đến của Dubai là vào năm 1095, trong quyển "Sách địa lý" của Abu Abdullah al-Bakri, một nhà lịch sử địa lý Andalucia-Ả Rập. Năm 1580, Gaspero Balbi, một thương gia ngọc trai từ Venice (ở Ý), đã đến thăm khu vực này và đề cập đến Dubai (với tên gọi Dibei) về nghề săn ngọc trai ở đây. Từ năm 1799, đã có ghi nhận về sự tồn tại của thị trấn Dubai. Đầu thế kỷ thứ XIX, bộ tộc Abu Al Falasa (dòng Al-Falasi) của bộ lạc Bani Yas thành lập Dubai. Vùng đất này vẫn nằm dưới sự phụ thuộc Abu Dhabi cho đến năm 1833. Ngày 8 tháng 1 năm 1820, tù trưởng của Dubai và các tù trưởng khác trong khu vực đã ký "Hiệp ước hòa bình toàn vùng biển" với chính phủ Anh. Năm 1833, do thù hận với bộ tộc, triều đại Al Maktoum (cũng là hậu duệ dòng Al-Falasi) thuộc bộ tộc Bani Yas đã rời bỏ ốc đảo Siwa, quê hương tổ tiên nằm ở phía Tây Nam Abu Dhabi của họ, và nhanh chóng chiếm được Dubai từ bộ tộc Abu Fasala mà không gặp sự kháng cự nào.

Năm 1892, Dubai chịu sự bảo hộ của Anh Quốc thông qua "Hiệp định độc quyền", trong đó, Vương quốc Anh đồng ý bảo hộ Dubai chống lại đế quốc Ottoman. Trong những năm 1800, hai thảm họa đã giáng xuống phố. Đầu tiên là vào năm 1841, dịch bệnh đậu mùa bùng phát ở các địa phương Bur Dubai, buộc người dân phải di dời về phía đông tới Deira. Sau đó, vào năm 1894, một trận hỏa hoạn đã quét qua Deira, đốt cháy trụi gần như toàn bộ nhà cửa. Tuy nhiên, vị trí địa lý của thành phố tiếp tục lôi kéo các thương gia từ khắp nơi trong khu vực. Hoàng thân Dubai rất quan tâm thu hút các thương nhân nước ngoài qua việc giảm khung thuế thương mại, điều này khiến cho Dubai có lượng thương nhân tập trung nhiều hơn hai trung tâm thương mại chính của khu vực vào thời điểm đó là Sharjah và Bandar Lengeh.

Do khoảng cách địa lý gần Iran, Dubai đã trở thành một vị trí thương mại chủ yếu. Phố Dubai là một hải cảng quan trọng thu hút các thương gia nước ngoài ghé qua, phần lớn từ Iran. Nhiều thương gia sau đó đã định cư tại nơi này. Vào đầu thế kỷ XX, phố Dubai trở thành cảng chủ chốt. Dubai vốn nổi tiếng với ngành xuất khẩu ngọc trai cho đến những năm 1930, việc buôn bán ngọc trai đã bị phá hủy hoàn toàn do Thế Chiến thứ Nhất, và sau đó là do cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930. Cùng với sự sụp đổ của ngành công nghiệp ngọc trai, Dubai rơi vào sự suy thoái trầm trọng và nhiều người dân bị chết đói hoặc phải di cư sang những nơi khác ở vùng vịnh Ba Tư.

Trong những ngày đầu kể từ khi thành lập, Dubai đã liên tục xung đột với Abu Dhabi. Năm 1947 xảy ra cuộc tranh chấp biên giới chung phía Bắc giữa Dubai và Abu Dhabi. Cuộc tranh chấp này sau đó đã leo thang thành chiến tranh. Người Anh đã phân xử việc này bằng việc lập một đường biên giới vùng đệm chạy dọc theo hướng Đông Nam từ bờ biển Ras Hasian. Kết quả là đã tạm dừng được chiến sự. Trong những năm 1950, khi người Anh đã chuyển những cơ quan hành chính địa phương của họ từ Sharjah sang, các dịch vụ điện thoại lần lượt có mặt tại Dubai cùng một sân bay. Do nước láng giềng Abu Dhabi tìm thấy những mỏ dầu lớn, Dubai đã tiến hành thăm dò trong nhiều năm, cuối cùng năm 1971 đã phát hiện ra dầu ở Dubai, mặc dù với số lượng nhỏ hơn rất nhiều. Sau đó thị trấn được trợ cấp nhượng đất cho các công ty dầu quốc tế. Việc phát hiện dầu đã dẫn đến một làn sóng lớn người lao động nước ngoài du nhập vào đây, chủ yếu là người Ấn Độ và Pakistan. Từ năm 1968 đến năm 1975, dân số của thành phố đã tăng hơn 30%.

Năm 1971, Vương quốc Anh rút khỏi vịnh Ba Tư và sự bảo hộ đã thiết lập ở đây. Ngày 2 tháng 12 năm 1971, Dubai cùng với Abu Dhabi và năm tiểu vương quốc khác thành lập UAE. Năm 1973, Dubai tham gia với các tiểu vương quốc khác trong việc áp dụng đồng tiền thống nhất là đồng UAE dirham. Trong những năm 1970, Dubai tiếp tục phát triển dựa trên nguồn thu thu nhập từ dầu mỏ và thương mại, ngay cả khi thành phố trải qua một cuộc nhập cư rầm rộ từ dòng người chạy trốn cuộc nội chiến Liban ở Liban. Cuộc tranh chấp biên giới giữa các tiểu vương quốc vẫn tiếp tục ngay cả sau khi UAE thành lập. Mãi đến 1979, một thỏa hiệp chính thức đã chấm dứt được tình trạng chiến tranh này. Năm 1979, cảng Jebel Ali được thành lập. Năm 1985, Jafza (sau này là khu tự do Jebel Ali) được xây dựng xung quanh khu cảng, cho phép các công ty nước ngoài xuất khẩu vốn và nhập khẩu lao đông không hạn chế.

Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990 có ảnh hưởng lớn đến thành phố. Do điều kiện chính trị không chắc chắn trong khu vực, nhiều khách hàng đã rút một lượng vốn lớn từ các ngân hàng ở Dubai. Sau này, trong thập niên 1990, đã có nhiều nhóm kinh doanh thuyên chuyển doanh nghiệp của họ đến Dubai. Đầu tiên là nhóm từ Kuwait, trong chiến tranh Vùng Vịnh, và sau đó từ Bahrain, trong cuộc biến loạn Hồi giáo Shia. Dubai cung cấp các căn cứ tiếp nhiên liệu cho liên quân tại khu tự do Jebel Ali trong chiến tranh Vùng Vịnh, và một lần nữa trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003. Sự gia tăng mạnh giá dầu sau chiến tranh Vùng Vịnh khiến Dubai đẩy mạnh tập trung vào thương mại tự do và du lịch.



Bản đồ thành phố Dubai.

Trung tâm Sharjah - Dubai về đêm.

Cồn cát nhuốm màu đỏ của oxit sắt trong các sa mạc phía Đông Dubai.

Dubai nằm trên bờ biển vịnh Ba Tư của UAE và gần mực nước biển (độ cao 16 m so vơi mực nước biển). Tiểu vương quốc Dubai giáp ranh biên giới với Abu Dhabi ở phía Nam, Đông Bắc giáp Sharjah và Đông Nam giáp Vương quốc Hồi giáo Oman. Hatta, một phần nhỏ tách ra từ Dubai, được bao bọc ba phía bởi Oman và tiểu vương quốc Ajman (ở phía Tây) và Ras Al Khaimah (ở phía bắc). Vùng Vịnh Ba Tư giáp bờ biển phía Tây của Dubai. Dubai nằm ở 25°16′11″B 55°18′34″Đ / 25,26972°B 55,30944°Đ / 25.26972; 55.30944 và có diện tích 4.114 km², là kết quả của sự mở rộng đáng kể từ 3.900 km2 ban đầu do quá trình cải tạo đất từ biển.

Dubai nằm ngay trong sa mạc Ả Rập. Tuy nhiên, địa hình của Dubai đặc biệt khác với các khu vực phía nam của UAE do cảnh quan của Dubai nổi bật với loại hình sa mạc cát, trong khi phía Nam của Dubai thì chủ yếu là sa mạc sỏi đá.[15] Cát chứa nhiều san hô và vỏ nghiền nát rất đẹp, sạch và trắng. Phía Đông thành phố, những cánh đồng muối ven biển, được gọi là sabkha, đã được thay thế bằng những cồn cát chạy dài theo hướng Bắc-Nam. Xa hơn về phía Đông, các cồn cát lan rộng hơn và nhuốm màu đỏ của sắt oxit.[16]

Các sa mạc cát phẳng hướng về phía núi Tây Hajar, chạy dọc theo biên giới của Dubai với Oman ở Hatta. Dãy Tây Hajar có cảnh quan khô cằn, lởm chởm và đứt quãng, ở một số nơi có dãy núi tăng lên đến khoảng 1.300 m. Dubai không có hệ thống sông tự nhiên hay ốc đảo, tuy nhiên, có một cái lạch tự nhiên gọi là Dubai Creek, đã được nạo vét để tạo đủ độ sâu cho tàu lớn đi qua. Dubai cũng có nhiều hẻm núi và hố lõm đánh dấu sự hiện diện của núi Tây Al Hajar. Một vùng biển rộng lớn tạo bởi những cồn cát phủ lên phần lớn lãnh thổ miền nam Dubai, dẫn thẳng đến sa mạc The Empty Quarter. Dubai đang ở trong một khu vực rất ổn định, đường nứt địa chấn gần nhất là Zagros cách 200 km (124,27 dặm) từ UAE và dường như không gây tác động địa chấn nào cho Dubai.[17] Các chuyên gia cũng dự đoán rằng khả năng sóng thần xảy ra trong khu vực này là cực kì thấp vì nước ở Vùng Vịnh Ba Tư không đủ sâu để tạo nên một đợt sóng thần.[17]

Các sa mạc cát bao quanh thành phố mọc lên các loại cỏ hoang và cây chà là. Lục bình sa mạc phát triển trong vùng đồng bằng sabkha phía Đông thành phố, còn cây keo và cây ghaf phát triển ở vùng đồng bằng gần núi Tây Al Hajar. Một số cây bản địa như chà là và neem, cây nhập khẩu như bạch đàn phát triển trong các khu tự nhiên của Dubai. Loài chim ô tác houbaraa, linh cẩu vằn, giống mèo rừng Bắc Phi, cáo sa mạc, chim ưng và linh dương sừng kiếm Ả Rập có nhiều trong sa mạc ở Dubai. Dubai nằm trên đường di cư giữa châu Âu, châu Á và châu Phi. Vào mùa xuân và mùa thu, có hơn 320 loài chim di cư đi qua Dubai. Các vùng biển của Dubai là ngôi nhà của hơn 300 loài cá, bao gồm cá mú. Tuy nhiên, do bị đánh bắt quá mức vì giá trì dinh dưỡng cao, cá mú đang có nguy cơ biến mất ở Dubai.[18] Các sinh vật biển điển hình ngoài khơi bờ biển Dubai bao gồm các loài cá nhiệt đới, sứa, san hô, cá nược, cá heo, cá voi và cá mập. Các loại rùa cũng có thể tìm thấy trong khu vực, bao gồm đồi mồi (rùa biển) và rùa xanh - được liệt vào danh sách các loài đang có nguy cơ bị đe dọa.[19][20]

Con lạch Dubai Creek chạy phía Đông Bắc-Tây Nam qua thành phố. Phần phía đông của thành phố là các vùng trên địa bàn Deira. Hai bên thành phố là tiểu vương quốc Sharjah ở phía Đông và trị trấn Al Aweer ở phía Nam. Sân bay quốc tế Dubai nằm ở phía Nam Deira, trong khi quần đảo nhân tạo Palm Deira nằm ở phía bắc của Deira ở Vịnh Ba Tư. Phần lớn sự bùng nổ bất động sản của Dubai tập trung về phía tây của lạch Dubai, trên vành đai ven biển Jumeirah. Cảng Rashid, thị trấn cảng Jebel Ali, khách sạn Burj Al Arab, quần đảo nhân tạo Jumeirah Palm và cá khu tự do như Business Bay đều nằm trong vùng này.






Dubai skyline
Dubai skyline



Dubai có khí hậu kiểu hoang mạc nên rất khô cằn nóng bức. Mùa hè ở Dubai cực kì nóng, gió nhiều và khô, nhiệt độ trung bình mùa hè ban ngày khoảng 40 °C và ban đêm giảm còn khoảng 30 °C. Hầu hết các ngày có nắng quanh năm. Ngược lại, mùa đông có thời tiết khá mát mẻ, thậm chí se lạnh với nhiệt độ ban ngày trung bình 24 °C và ban đêm khoảng giảm còn khoảng 14 °C. Tuy nhiên, mùa đông ở Dubai lại tương đối ngắn. Dubai nóng nhất là vào tháng 8 và lạnh nhất vào tháng 1. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua lượng mưa đã gia tăng. Lượng mưa tích lũy đạt hàng năm đo được vào khoảng 88 mm.

Mùa hè tại Dubai cũng được biết đến với độ ẩm rất cao, điều này có thể khiến cho rất nhiều người cảm thấy khó chịu nếu không quen với thời tiết ở đây. Nhiệt độ ghi nhận cao nhất ở UAE là 52,1 °C (126 °F) vào tháng 7 năm 2002
[21].

















































































































































Dữ liệu khí hậu của Dubai
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Năm
Cao kỉ lục °C (°F)
31.3
37.2
39.6
43
(109)
44.9
47
(117)
48.4
47.2
44.7
42
(108)
36.9
33.3
48,4
Trung bình cao °C (°F)
23.6
25.4
28.2
33
(91)
37.6
38.7
40.8
41
(106)
39
(102)
35.6
30.3
26.2
33,2
Trung bình ngày, °C (°F)
18.9
20.3
22.8
27
(81)
31.4
33
(91)
35.4
35.4
33.4
30.0
25.1
21.2
27.83
Trung bình thấp, °C (°F)
14.2
15.3
17.5
21
(70)
24.9
27.2
30.2
30.2
27.7
24.3
20.0
16.2
22,3
Thấp kỉ lục, °C (°F)
3.2
6.5
8.9
13
(55)
15
(59)
18
(64)
20.3
23
(73)
16.3
14.9
11.5
8.1
3,2
Giáng thủy mm (inch)
19
(0.75)
25.0
(0.984)
35
(1.38)
8
(0.31)
0.5
(0.02)
0.5
(0.02)
0.9
(0.035)
0.3
(0.012)
0.4
(0.016)
1.1
(0.043)
3
(0.12)
17
(0.67)
110,7
(4,358)
% độ ẩm
65
65
63
55
53
58
56
57
60
60
61
64
59,8
Số ngày giáng thủy TB
6
4.7
7
3
0.3
0.7
0.5
0.5
0.5
1
2
4.2
30,4
Số giờ nắng trung bình hàng tháng
254.2
229.6
254.2
294.0
344.1
342.0
322.4
316.2
309.0
303.8
285.0
254.2
3.508,7
Tỷ lệ khả chiếu
75
75
68
75
85
81
74
78
86
82
86
75
78
Nguồn #1: Dubai Meteorological Office[22]
Nguồn #2: climatebase.ru (extremes, sun),[23] NOAA (humidity, 1974–1991)[24]

Xe cảnh sát ở Dubai, một chiếc BMW Sedan đời thứ 5.


Chính phủ Dubai hoạt động trong khuôn khổ chế độ quân chủ lập hiến, do gia tộc Al Maktoum trị vì từ năm 1833. Tiểu vương hiện tại là Mohammed bin Rashid Al Maktoum, đồng thời phó tổng thống và thủ tướng của UAE, ngoài ra ông còn là thành viên của Hội đồng cấp cao liên bang (SCU). Dubai bổ nhiệm tám thành viên vào hai nhiệm kỳ của Hội đồng Liên bang quốc gia (FNC) của UAE, cơ quan lập pháp tối cao của liên bang.

Khu tự quản Dubai được thành lập năm 1954 bởi vị tiểu vương cũ của Dubai là Rashid bin Saeed Al Maktoum bởi những mục đích như: quy hoạch thành phố, các dịch vụ dân sự và bảo trì cơ sở địa phương.[25] Khu tự quản Dubai do Hamdan bin Rashid Al Maktoum cai trị, ông đồng thời là quyền đại biểu của Dubai và giữ chức vụ trong một số cơ quan khác như Cục Đường bộ, Sở Kế hoạch và Điều tra, Sở Y tế và Môi trường, Sở Nội vụ tài chính. Trong năm 2001, thành phố Dubai đã bắt tay vào dự án Chính phủ điện tử với mục đích cung cấp 40 trong số các dịch vụ ở Dubai thông qua trang web cổng thông tin Dubai dubai.ae. Mười ba dịch vụ trong số đó đã được đưa ra giới thiệu vào tháng 10 năm 2001, trong khi một số dịch vụ khác dự kiến sẽ hoạt động trong tương lai.[26] Khu tự quản Dubai cũng phụ trách cơ sở hạ tầng thoát nước và vệ sinh của thành phố.[27]

Lực lượng cảnh sát Dubai, thành lập năm 1956 tại địa phương Naif, có thẩm quyền thực thi pháp luật trên toàn tiểu vương quốc; lực lượng này do Mohammed bin Rashid al Maktoum, quốc vương Dubai, trực tiếp chỉ huy.

Dubai và Ras al Khaimah là hai tiểu vương quốc duy nhất không theo hệ thống tư pháp liên bang của UAE.[28] Các tòa án tư pháp của Dubai gồm toà sơ thẩm, tòa phúc thẩm, và tòa thượng thẩm. Toà án sơ thẩm bao gồm tòa án dân sự, giải quyết cả các khiếu nại dân sự. Tòa án hình sự giải quyết các khiếu nại từ cảnh sát. Tòa án Sharia chịu trách nhiệm về các vấn đề giữa người Hồi giáo. Những người không phải Hồi giáo không được phép vào tòa án Sharia. Tòa thượng thẩm là tòa án tối cao của tiểu vương quốc, chỉ giải quyết tranh chấp về những vấn đề liên quan đến luật pháp.[29]



Dubai có khoảng 250.000 lao động, chủ yếu đến từ Nam Á và làm việc trong các dự án phát triển bất động sản như Dubai Marina.

Điều 25 của Hiến pháp UAE quy định về đối xử công bằng với con người bất kể chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo hay địa vị xã hội. Tuy nhiên, phần lớn trong số 250.000 lao động nước ngoài ở Dubai sống trong điều kiện được Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Quốc tế (HRW) đánh giá là "thiếu nhân tính".[30][31][32] Đài phát thanh nhân dân quốc gia (NPR) tường thuật rằng lao động "thường sống đến tám người trong một căn phòng, gửi về quê nhà một phần tiền lương của họ cho gia đình, những người thân mà họ không nhìn thấy trong nhiều năm liền. " Ngày 21 tháng 3 năm 2006, công nhân tại các công trường xây dựng ở Burj Khalifa, bất mãn với sự điều chỉnh thời gian xe bus và điều kiện làm việc, đã nổi loạn bằng cách phá hoại xe hơi, văn phòng, máy tính, và các thiết bị xây dựng khác.[33][34][35][36] Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến cho tầng lớp lao động ở Dubai chịu những tổn thất trầm trọng, nhiều người lao động không những không được trả lương mà còn không đủ tiền rời khỏi đất nước này.[37][38]

Những bất công lao động diễn ra ở Dubai đã thu hút sự chú ý của nhiều tổ chức nhân quyền. Các tổ chức này đã cố gắng thuyết phục chính phủ ký kết hai điều trong Công ước tám điều của Tổ chức Lao động quốc tế, cho phép thành lập các công đoàn lao động. Tuy nhiên, chính phủ Dubai đã bác bỏ bất cứ loại hình bất công lao động nào và khẳng định rằng lời cáo buộc của các cơ quan giám sát là sai lầm.[39] Đến cuối tháng 3 năm 2006, chính phủ công bố các bước để cho phép các công đoàn xây dựng thành lập. Bộ trưởng lao động UAE Ali al-Kaabi tuyên bố: "Người lao động sẽ được phép thành lập công đoàn. "[40]

Mặc dù bị cho là bất hợp pháp, nhưng do nền kinh tế chủ yếu dựa vào du lịch và thương mại, dễ thấy được rằng mại dâm là tệ nạn đang hiện diện trong tiểu vương quốc này. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Quốc tế Hoa Kỳ (AMCIPS) tiến hành nghiên cứu và phát hiện ra rằng đa số gái mại dâm là phụ nữ Nga và Ethiopia, cũng như các phụ nữ từ một số nước châu Phi, trong khi gái mại dâm Ấn Độ là một phần của mạng lưới mại dâm xuyên đại dương được tổ chức chặt chẽ.[41] Năm 2007, một phim tài liệu của Cục phát thanh truyền hình công cộng PBS (của Mỹ) mang tựa đề: Dubai: những bí mật về đêm tường thuật rằng tệ nạn mại dâm ở các câu lạc bộ được sự chấp nhận của các chính quyền và phụ nữ nước ngoài làm việc ở đó mà không hề bị ép buộc.[41][42]















Năm
Dân số
182211.200[43]
1900110.000[44]
1930120.000[45]
1940138.000[43]
1954120.000[43]
1960140.000[46]
196858.971[47]
1975183.000[48]
1985370.800[49]
1995674.000[49]
20051.204.000
1 Các thị trấn của Dubai tiến hành lần điều tra dân số đầu tiên vào năm 1968. Tất cả số liệu dân số trong bảng này trước năm 1968 là số liệu thu được từ những nguồn khác nhau.

Theo điều tra do Trung tâm Thống kê của Dubai tiến hành, năm 2009 dân số của tiểu vương quốc là 1.771.000 người, trong đó có 1.370.000 nam và 401.000 nữ.[50]. Tính đến tháng 6 năm 2017, dân số là 2.789.000 người [51]. Khu vực này có diện tích 1.287,4 km². Mật độ dân số là 408,18/km² - hơn tám lần của UAE. Dubai là thành phố đắt đỏ thứ hai trong khu vực, và thành phố đắt đỏ thứ 20 trên thế giới.[52]

Vào năm 2013, 15% dân số của tiểu vương quốc là công dân UAE [53]. Khoảng 85% dân nhập cư (cũng là 71% tổng dân số của Dubai) đến từ các nước châu Á khác, chủ yếu là Ấn Độ (51%), Pakistan (16%), Bangladesh (9%) và Philippines (3%). Khoảng 3% dân số đến từ phương Tây.[54][55] Tuy nhiên, một điều tra khác cho biết phần lớn dân số Dubai có nguồn gốc từ Iran.[56] Ngoài ra, 16% dân số (khoảng 288.000 người) sống trong các khu nhà tập thể lao động không xác định được dân tộc, quốc tịch, nhưng được cho là chủ yếu đến từ châu Á.[57] Dubai có dân số trẻ, tuổi thọ trung bình là khoảng 27 năm. Tỷ suất sinh thô (CBR) năm 2005 là 13,6%, trong khi tỷ suất tử vong thô (CDR) khoảng 1%.[58] Mặc dù tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức, tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ chung của thành phố và được cư dân nói rộng rãi. Tiếng Urdu, tiếng Ba Tư, tiếng Hindi, tiếng Telugu, tiếng Bengali, tiếng Tamil, tiếng Tagalog, tiếng Trung Quốc, tiếng Mã Lai và các ngôn ngữ khác đều được nói ở Dubai do nguồn cư dân nước ngoài đa dạng ở đây.[59]

Điều 7 của Hiến pháp lâm thời UAE tuyên bố Hồi giáo là quốc giáo chính thức của UAE. Chính phủ trợ giá cho hầu hết 95% nhà thờ Hồi giáo và thuê tất cả thầy tế của đạo Hồi; khoảng 5% nhà thờ Hồi giáo hoàn toàn của tư nhân, và một số nhà thờ Hồi giáo lớn có số tiền quyên góp tư nhân lớn.[60]

Dubai cũng có một lượng lớn tín đồ Kitô giáo, đạo Hindu, Bahá'í, Sikh, Phật giáo và các cộng đồng tôn giáo khác định cư tại thành phố.[61] Những tổ chức không phải Hồi giáo có thể lập nơi thờ phụng riêng của họ, nơi họ có thể tự do thực thi tôn giáo của mình, bằng cách yêu cầu một khoản trợ cấp đất và giấy phép xây dựng khu đất. Những nhóm tôn giáo không có cứ điểm riêng phải sử dụng các cơ sở của các tổ chức tôn giáo khác hoặc thờ cúng tại nhà riêng.[62] Những tổ chức không phải Hồi giáo được phép công khai quảng bá hoạt động của mình, tuy nhiên, việc cải đạo hoặc phân phối các tài liệu tôn giáo đều bị nghiêm cấm, có thể bị truy tố hình sự, phạt tù và trục xuất vì tham gia vào những hành vi xúc phạm đến Hồi giáo.[60]




Trung tâm thương mại thế giới Dubai

ْĐại lộ Umm Hurair ở Dubai

Năm 2014, tổng sản phẩm quốc dân của Dubai là 107.1 tỉ USD [64]. Trong khi 85% nền kinh tế và 77% thu ngân sách của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất phải dựa vào dầu mỏ và khí đốt, tỷ lệ này ở Dubai thấp hơn đáng kể do lợi thế của nó là một đô thị chuyên về thương mại, tài chính được xây dựng từ việc huy động nguồn vốn của cả sáu tiểu vương quốc khác trong liên minh Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (Dubai được dự định trở thành trung tâm tài chính, cảng biển của cả bảy vương quốc). Mặc dù nền kinh tế của Dubai đã được xây dựng trên lưng của ngành công nghiệp dầu khí,[65] doanh thu từ dầu mỏ và khí đốt hiện chiếm ít hơn 7% doanh thu của toàn tiểu vương quốc.[6]

Ước tính rằng Dubai sản xuất ra 50.000 đến 70.000 thùng (11.000 m3) dầu mỗi ngày[66] và một lượng lớn khí đốt từ các mỏ ngoài khơi. Dubai đóng góp do doanh thu khí đốt của UAE khoảng 2%. Trữ lượng dầu mỏ của Dubai đã giảm đi đáng kể và dự kiến sẽ bị cạn kiệt trong vòng 20 năm.[67]Bất động sản và xây dựng (22,6%),[8]thương mại (16%), trung chuyển (15%) và dịch vụ tài chính (11%) đóng góp nhiều nhất cho nền kinh tế của Dubai.[68] Các đối tượng xuất khẩu hàng đầu của Dubai gồm Ấn Độ (5,8 tỷ USD), Thụy Sĩ (2,37 tỷ USD) và Ả Rập Xê Út (0,57 tỷ USD). Các đối tượng tái xuất khẩu hàng đầu của Dubai gồm Ấn Độ (6,53 tỷ USD), Iran (5,8 tỷ USD) và Iraq (2,8 tỷ USD). Các đối tượng nhập khẩu hàng đầu của Dubai là Ấn Độ (12.55 tỷ USD), Trung Quốc (11,52 tỷ USD) và Hoa Kỳ (7,57 tỷ USD). Tính đến năm 2009 thì Ấn Độ là đối tác thương mại lớn nhất của Dubai.[69]

Trong lịch sử, Dubai và thành phố sinh đôi nằm bên kia qua con lạch Dubai Creek - thành phố Deira (độc lập với thành phố Dubai vào thời điểm đó) - là những cảng quan trọng mà các nhà sản xuất phương Tây thường ghé thăm. Hầu hết các ngân hàng và các trung tâm tài chính của thành phố mới đặt trụ sở chính tại khu vực cảng. Dubai duy trì tầm quan trọng của nó với vai trò là một tuyến đường thương mại từ năm 1970 đến 1980. Dubai có một khu thương mại vàng tự do và cho đến những năm 1990 là trung tâm của một "khu buôn lậu sầm uất"[70] vàng nén cho Ấn Độ, nơi hạn vàng bị hạn chế nhập khẩu. Cảng Jebel Ali ở Dubai, được xây dựng vào những năm 1970, là cảng nhân tạo lớn nhất thế giới và được xếp hạng thứ bảy trên thế giới về khối lượng giao thông vận tải mà nó hỗ trợ.[71] Dubai cũng là một trung tâm của các ngành công nghiệp dịch vụ như công nghệ thông tin và tài chính, với các khu miễn thuế đặc quyền kinh tế ở khắp thành phố. Thành phố Internet Dubai, kết hợp với Thành phố Truyền thông Dubai là một phần của TECOM (Cục miễn thuế truyền thông, thương mại điện tử và công nghệ Dubai), là một trong những vùng mà các thành viên trong đó bao gồm các tập đoàn công nghệ thông tin như tập đoàn EMC, tập đoàn Oracle, Microsoft, và IBM và các tổ chức truyền thông như MBC, CNN, BBC, Reuters, Sky News và AP.

Các chính sách của chính phủ nhằm đa dạng hóa một nền kinh tế dựa vào dầu khí và thương mại trở thành một nền kinh tế phát triển dựa trên dịch vụ và du lịch, theo hướng làm tăng giá trị bất động sản, kết quả đạt được là giá trị bất động sản tăng trong khoảng từ năm 2004 đến 2006. Tuy nhiên, một đánh giá dài hạn về tình hình thị trường bất động sản ở Dubai cho thấy sự mất giá, một số tài sản bị mất đến 64% giá trị của nó từ năm 2001 đến tháng 11 năm 2008.[72] Các dự án phát triển bất động sản với quy mô lớn đã dẫn đến việc xây dựng những công trình cao nhất và các dự án lớn nhất thế giới như: những tòa tháp UAE, tháp Burj Khalifa, quần đảo cây cọ và Burj Al Arab - khách sạn cao nhì và xa hoa nhất thế giới.[73]Thị trường tài chính Dubai (DFM) được thành lập vào tháng 3 năm 2000 đóng vai trò là một thị trường thứ cấp về kinh doanh chứng khoán và trái phiếu, cả trong lẫn ngoài nước. Vào quý IV năm 2006, khối lượng giao dịch của DFM đứng ở mức khoảng 400 tỷ cổ phiếu, tổng trị giá 95 tỷ USD. DFM có lượng vốn hóa thị trường vào khoảng 87 tỷ USD.[57]

Năm 2007, một cuộc khảo sát của City Mayors đánh giá Dubai đứng thứ 44 trong số những thành phố tài chính tốt nhất thế giới,[74] trong khi một báo cáo khác của City Mayors vào năm 2009 cho thấy Dubai đứng thứ 33 trong số các thành phố giàu nhất thế giới về sức mua tương đương (PPP).[75] Dubai cũng là một trung tâm tài chính quốc tế và đã được xếp hạng 37 trong tốp 50 thành phố tài chính trên thế giới theo khảo sát trong danh mục thương mại năm 2007 của trung tâm Mastercard toàn cầu,[76] và là trung tâm tài chính hàng đầu ở khu vực Trung Đông.

Trong năm 2008 và 2009, thị trường bất động sản của Dubai đã trải qua một cuộc suy thoái lớn, được xem như kết quả của tình hình kinh tế suy thoái.[10] Tháng 12 năm 2008, Mohammed al-Abbar, giám đốc điều hành của công ty Emaar tuyên bố với báo chí quốc tế rằng Emaar sở hữu khoản tín dụng của 70 tỷ USD] và chính quyền Dubai bổ sung 10 tỷ USD trong khi đang nắm giữ ước tính khoảng 350 tỷ USD giá trị bất động sản. Đến đầu năm 2009, tình hình đã trở nên tồi tệ do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm giảm đi phần lớn giá trị tài sản, việc xây dựng và việc làm.[77] Các khoản nợ nước ngoài của Dubai vào tháng 2 năm 2009 ước tính khoảng 80 tỷ USD, mặc dù đây chỉ là một phần nhỏ trong những khoản nợ có chủ quyền ở khắp thế giới.[78]

Ngày 14 tháng 12 năm 2009, Abu Dhabi, tiểu vương quốc giàu dầu mỏ nhất trong UAE, cung cấp cho Dubai vay 10 tỷ USD.[79][80] Mặc dù vậy, thái độ của Abu Dhabi đối với vấn đề nợ của Dubai hiện đã rõ ràng. Ngày 29 tháng 11 năm 2009, các nhà chức trách Abu Dhabi đã khẳng định, họ sẽ không giúp Dubai trả hết nợ, mà sẽ chỉ lựa chọn hỗ trợ một số doanh nghiệp của Dubai trong trường hợp cần thiết.[81] Vấn đề lịch sử cũng được xem là có vai trò không nhỏ trong thái độ của Abu Dhabi trong cuộc khủng hoảng nợ này. Tuy ngân hàng trung ương UAE có hỗ trợ vốn cho Dubai nhưng khả năng vỡ nợ cấp quốc gia của Dubai hiện đang là rất lớn. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng nợ của Dubai cũng ảnh hưởng tới hàng ngàn công nhân người nước ngoài đang làm việc ở đây, chủ yếu hơn 90% từ các nước Nam Á.[cần dẫn nguồn]



Phố buôn bán Dubai Mall là một trong những khu phố buôn bán lớn nhất thế giới.

Du lịch là một phần quan trọng trong chiến lược của chính phủ Dubai để duy trì dòng chảy ngoại tệ vào tiểu vương quốc này. Dubai thu hút khách du lịch dựa chủ yếu vào mua sắm, tuy nhiên cũng nhờ vào việc sở hữu các điểm tham quan cổ xưa và hiện đại. Tính đến năm 2013, Dubai là thành phố thu hút lượng khách du lịch đứng thứ 7 trên thế giới [82]. Theo Tổng cục Du lịch Dubai, vào năm 2017, đã có 15,79 triệu khách du lịch đến thăm Dubai [83]. Dubai là tiểu vương quốc đông dân nhất trong bảy tiểu vương quốc của UAE. Khác với các thành viên khác của UAE, phần lớn doanh thu của Dubai là từ du lịch.[84] Vì gần như không có dầu lửa, niềm hy vọng duy nhất của Dubai để tạo vị thế bên cạnh tiểu vương quốc Abu Dhabi giàu có là phát triển mạnh mẽ những lĩnh vực như du lịch cao cấp và bất động sản. Dubai cũng đã gặt hái được không ít thành công với chiến lược này. Tới năm 2008, 95% GDP của Dubai là do du lịch và bất động sản đóng góp.

Dubai được gọi là "thành phố mua sắm của Trung Đông".[85] Dubai có hơn 70 trung tâm mua sắm, bao gồm Dubai Mall, trung tâm thương mại lớn nhất trên thế giới. Thành phố này thu hút số lượng lớn khách du lịch mua sắm từ các nước trong khu vực và từ xa như Đông Âu, châu Phi và tiểu lục địa Ấn Độ. Trong khi các cửa hàng lưu niệm, điểm bán đồ điện tử, cửa hàng mua sắm và siêu thị hoạt động trên cơ sở giá cố định, hầu hết các cửa hàng khác xem việc mặc cả thân thiện như một phần vốn có của cuộc sống.[86]

Dubai còn nổi tiếng với các khu chợ nằm ở hai bên bờ con lạch Dubai Creek. Theo truyền thống, các thuyền buôn từ vùng Viễn Đông, Trung Quốc, Sri Lanka, và Ấn Độ sẽ dỡ hàng hóa của họ xuống đây và chúng sẽ được mặc cả ở các chợ gần với bến tàu.[87] Nhiều cửa hàng lưu niệm và đồ trang sức cũng được tìm thấy trong thành phố. Dubai được biết đến như "thành phố Vàng" và chợ Vàng ở khu Deira có gần 250 cửa hàng vàng bán lẻ.[88] Khu miễn thuế ở sân bay quốc tế Dubai cung cấp hàng hóa phục vụ cho hành khách đa quốc gia sử dụng các chuyến bay ở đây.


Ski Dubai[sửa | sửa mã nguồn]



Ski Dubai là khu trượt tuyết trong nhà tại Mall of the Emirates, nơi có các bãi trượt tuyết, lớp học trượt tuyết, khu vui chơi cho trẻ em và quán café. Nó được khai trương vào tháng 11 năm 2005 và có công viên tuyết trong nhà lớn nhất thế giới. Nó được điều hành bởi Tập đoàn Majid Al Futtaim.



Kiến trúc[sửa | sửa mã nguồn]


Tháp Burj Khalifa ở Dubai hiện đang là tòa nhà cao nhất thế giới với độ cao 828 m.



Dubai là nơi tập hợp phong phú của các tòa nhà cao tầng và các công trình kiến trúc với nhiều phong cách kiến trúc khác nhau. Do sự bùng nổ về kiến trúc xây dựng và đổi mới trong thế giới Ả Rập nói chung, và đặc biệt ở Dubai, nhiều cách thể hiện cách tân của kiến trúc Hồi giáo có thể được tìm thấy tại Dubai. Các công trình này được hỗ trợ bởi các công ty thiết kế kiến trúc và kỹ thuật hàng đầu ở New York và Chicago.[89] Do kết quả của sự bùng nổ này, trong thập kỷ qua, kiến trúc Hồi giáo và thế giới hiện đại thực sự được đưa đến tầm cao mới trong công nghệ và thiết kế xây dựng những cao ốc chọc trời, mà đỉnh cao vào năm 2010 với việc hoàn thành tòa tháp Burj Khalifa, hiện đang là tòa nhà cao nhất thế giới với độ cao 828 m. Thiết kế của tháp Burj Khalifa có nguồn gốc từ các hệ thống khuôn mẫu được thể hiện trong kiến trúc Hồi giáo, với kết cấu móng nền chạc ba (hình chữ Y) xây dựng dựa trên hình dáng giản lược của hoa hymenocallis - một loài hoa sa mạc 3 cánh, có nguồn gốc ở khu vực Dubai.[90] Sau sự bùng nổ xây dựng đã bắt đầu vào những năm 1980, được đẩy mạnh vào những năm 1990, và trong thập kỷ đầu của thế kỷ XX, việc hoàn thành tháp Khalifa đã tạo một bước tiến nhanh chóng trong việc xây dựng kiến trúc không song song trong lịch sử loài người hiện đại, đã để tên tuổi Dubai gắn liền với tên gọi đường chân trời cao nhất thế giới vào ngày 4 tháng 1 năm 2010.[91][92]


Burj Al Arab[sửa | sửa mã nguồn]


Burj Al Arab (Tiếng Ả Rập: برج العرب, Tower of the Arabs), một khách sạn sang trọng, thường được mô tả là "khách sạn 7 sao duy nhất trên thế giới", mặc dù ban quản lý cho biết họ chưa bao giờ đưa ra tuyên bố đó. Một phát ngôn viên của Tập đoàn Jumeirah được trích dẫn nói rằng: "Chúng tôi không thể làm gì để ngăn chặn nó. Chúng tôi không khuyến khích sử dụng thuật ngữ này. Chúng tôi chưa bao giờ sử dụng thuật ngữ này trong quảng cáo của chúng tôi." Khách sạn được mở cửa từ tháng 12 năm 1999.

Đây là một trong những khách sạn tuyệt vời nhất trên thế giới bao gồm 56 tầng, 202 phòng nằm rải rác ở 56 tầng của khách sạn. Trong đó có 1 phòng Royal Suite cực kỳ rộng rãi và xa hoa. Tỉ lệ nhân viên là 8:1 và có 60 quầy tiếp tân.Tại đây có những dịch vụ xa hoa như quản gia, đưa đón bằng xe Rolls-Royce hay trực thăng, sử dụng ipad vỏ vàng 24k... Nó còn có 8 nhà hàng. Trong đó có 1 nhà hàng dưới đại dương, 4 bể bơi, phòng thể dục hiện đại, quán bar và spa cao cấp. Đặc biệt còn có 1 sân đậu trực thăng cũng là sân tennis lơ lửng trên không. Nhiều nơi trong khách sạn được dát vàng lá, pha lê swarovski và đá cẩm thạch statuario Tổng diện tích là 24.000 m². Giá phòng từ 2000 USD tới 28.000 USD. Mỗi năm có 10 tấn chocolate được sử dụng làm các món tráng miệng tại đây.


Burj Khalifa[sửa | sửa mã nguồn]


Burj Khalifa, được biết đến với tên gọi Burj Dubai trước khi khánh thành, là một tòa nhà siêu chọc trời cao 828 mét (2,717 ft) ở Dubai, và là tòa nhà cao nhất thế giới hiện nay. Thiết kế tòa nhà được lấy cảm hứng từ hình dáng của loài hoa sa mạc Hymenocallis. Nó được xây dựng bởi hơn 30 công ty ký kết hợp đồng trên toàn thế giới cùng với công nhân của hơn 100 quốc gia. Nó được coi là biểu tượng của Dubai. Tòa nhà mở cửa vào năm 2010.


Đảo nhân tạo[sửa | sửa mã nguồn]


Palm Jumeirah[sửa | sửa mã nguồn]



Palm Jumeirah hay Quần đảo Cây Cọ ở Dubai là ba hòn đảo nhân tạo được xây bởi Nakheel Properties, một nhà phát triển tài sản ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Ba hòn đảo đó là Palm Jumeirah, Palm Jebel Ali và Palm Deira.

Các đảo được đặt xây bởi Sheikh Mohammed bin Rashid Al Maktoum để tăng cường phát triển du lịch cho Dubai. Mỗi khu định cư sẽ có hình dạng một cây cọ được bao bọc bên ngoài bởi vành cung hình trăng lưỡi liềm và sẽ có nhiều trung tâm giải trí, dân cư trên đó. Các hòn đảo này nằm ở ngoài bờ biển của Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất trong vịnh Ba Tư và sẽ cộng thêm 520 km bãi biển cho Dubai.

Hai đảo đầu tiên bao gồm khoảng 100 triệu m³ đá và cát được đắp nên. Palm Deira sẽ bao gồm 1 triệu m³ đá và cát. Tất cả vật liệu được khai thác trong nước. Giữa 3 hòn đảo là hơn 100 khách sạn sang trọng, khu biệt thự và căn hộ dân cư bên bãi biển độc quyền, bến tàu, công viên giải trí, nhà hàng, khu mua sắm, khu thể thao và thể dục sức khỏe.

Việc xây dựng Palm Jumeirah bắt đầu từ tháng 6 năm 2001. Ngay sau đó, người ta thông báo xây dựng Palm Jebel Ali và bắt đầu lấp biển. Năm 2004, đến lượt kế hoạch xây dựng Palm Deira được công bố.


Công viên[sửa | sửa mã nguồn]



Dubai có một lượng lớn công viên và những khu vườn nhỏ. Ngoài ra, Dubai còn có một số công viên lớn, khu vui chơi và những ngôi làng di sản. Kế hoạch chiến lược 2007-2011 của Khu tự quản Dubai nhằm mục tiêu tăng diện tích cây xanh trên đầu người lên 23,4 m² và đất canh tác ở khu vực thành thị tăng 3,15% vào năm 2011.[93] Thành phố này đã bắt đầu một dự án cây xanh sẽ được hoàn thành trong bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn trồng 10.000 cây.[94] Những công viên nổi tiếng gồm:


  • Công viên Creekside, Bur Dubai

  • Công viên Safa, đại lộ Sheikh Zayed

  • Công viên Al Mumzar Beach, Deira

  • Công viên Jumeirah Open Beach, đại lộ D94

  • Công viên Za'abeel, đường Sheikh Zayed

  • Công viên Mushrif, Deira, Dubai

  • Công viên nước Wild Wadi, đại lộ D94

  • Công viên giải trí Wonderland Amusement, Bur Dubai

Vệ sinh môi trường[sửa | sửa mã nguồn]


Hiện nay, rác thải của con người được thu thập hàng ngày từ hàng ngàn các thùng rác trong thành phố và được chở bằng xe rác đến nhà máy xử lý nước thải duy nhất của thành phố tại Al Awir. Sự phát triển nhanh chóng của Dubai đồng nghĩa với việc thành phố này đang phải mở rộng cơ sở hạ tầng xử lý nước thải vốn dĩ có giới hạn lên một giới hạn lớn hơn. Do việc xếp hàng chờ đợi và chậm trễ lâu dài, một số tài xế xe rác ở các khu nghỉ mát đã dùng cách đổ trái phép nước thải vào cống rãnh hoặc sau những cồn cát trong sa mạc. Nước thải đổ xuống cống bão chảy thẳng vào Vịnh Ba Tư, gần bãi biển bơi chính của thành phố. Các bác sĩ đã cảnh báo rằng những du khách tắm biển có nguy cơ mắc các bệnh nghiêm trọng như thương hàn và viêm gan.[95]Khu tự quản Dubai cam kết bắt thủ phạm và đã áp đặt tiền phạt lên đến 25.000 USD đồng thời đe dọa tịch thu các xe rác nếu tiếp diễn sự việc này. Thành phố này cho rằng kết quả xét nghiệm cho thấy mẫu nước thử vẫn "nằm trong tiêu chuẩn cho phép".[96]




Tuyến Đỏ trong hệ thống tàu điện ngầm ở Dubai. Hệ thống này là mạng lưới xe điện đô thị đầu tiên ở bán đảo Ả Rập.[97]

Abras là phương tiện di chuyển truyền thống giữa Deira và Bur Dubai.

Giao thông vận tải ở Dubai được điều khiển bởi Bộ giao thông vận tải. Mạng lưới giao thông công cộng phải đối mặt với vấn đề ùn tắc nghiêm trọng và vấn đề uy tín khổng lồ mà một kế hoạch đầu tư lớn đang cố gắng để giải quyết, trong đó gồm dự án cải tạo trị giá 70 tỉ AED dự định hoàn thành vào năm 2020, khi dân số của thành phố dự kiến sẽ vượt quá 3,5 triệu người.[98] Trong năm 2009, theo số liệu thống kê của Khu tự quản Dubai, ước tính có khoảng 1.021.880 xe hơi tại Dubai.[99] Tháng 1 năm 2010, số cư dân của Dubai sử dụng giao thông công cộng đứng ở mức 6%.[100] Mặc dù chính phủ đã đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng đường bộ của Dubai, nhưng vẫn không theo kịp với sự gia tăng không ngừng của các phương tiện giao thông. Điều này, cùng với các hiện tượng giao thông gây ra, đã dẫn đến các vấn đề ngày càng gia tăng do tình trạng ùn tắc giao thông.[101]


Đường bộ[sửa | sửa mã nguồn]


Có năm tuyến đường chính - E 101 (đại lộ Sheikh Zayed), E 311 (đại lộ Emirates), E 44 (cao tốc Hatta-Dubai), E 77 (đại lộ Al Habab-Dubai) và E 66 (đại lộ Oud Metha) - chạy qua Dubai, kết nối thành phố với các đô thị và các tiểu vương quốc khác. Ngoài ra, còn một số tuyến đường nội bộ quan trọng trong thành phố chẳng hạn như D 89 (đại lộ Al Maktoum/đại lộ sân bay), D 85 (đại lộ Baniyas), D 75 (đại lộ Sheikh Rashid), D 73 (đại lộ Al Dhiyafa), D 94 (đại lộ Jumeirah) và D 92 (đại lộ Al Khaleej/Al WASL) kết nối những vùng khác nhau trong thành phố. Những khu vực phía Đông và phía Tây của thành phố được liên kết bởi cây cầu Al Maktoum, cầu Al Garhoud, đường hầm Al Shindagha, cầu Business Bay Crossing và cầu Nổi.[102]

Hệ thống vận tải bằng xe buýt công cộng ở Dubai được điều hành bởi Cục giao thông vận tải đường bộ (RTA). Hệ thống xe buýt gồm 140 tuyến đường và vận chuyển hơn 109,5 triệu hành khách trong năm 2008. Đến cuối năm 2010, ước tính có 2.100 xe buýt phục vụ trong thành phố.[103] Bộ giao thông vận tải đã tuyên bố việc lắp đặt 500 máy lạnh tại các trạm chờ xe bus được thiết kế che chắn kín, và có kế hoạch cho hơn 1.000 trạm như thế ở các tiểu vương quốc khác, như một biện pháp khuyến khích sử dụng xe buýt công cộng.[104]

Dubai cũng có một hệ thống taxi rộng lớn, đến nay vẫn là phương tiện giao thông công cộng thông dụng nhất ở UAE.[105] Có các công ty taxi do tư nhân làm chủ, cũng có các công ty taxi do chính phủ điều hành. Có hơn 3000 xe taxi hoạt động ở Dubai. Những xe taxi ở Dubai chạy trung bình 192.000 chuyến mỗi ngày, chuyên chở khoảng 385.000 hành khách. Trong năm 2009, số chuyến taxi đã vượt quá 70 triệu chuyến, phục vụ khoảng 140,45 triệu hành khách.[106][107]


Đường không[sửa | sửa mã nguồn]


Sân bay quốc tế Dubai (mã sân bay IATA: DXB), là trung tâm của hãng hàng không UAE, phục vụ thành phố Dubai và các tiểu vương quốc khác trong UAE. Sân bay quốc tế Dubai là sân bay đông đúc thứ 15 trên thế giới về lượng hành khách lưu thông với 40,9 triệu lượt hành khách trong năm 2009. Đây cũng là sân bay tấp nập đứng hàng thứ 6 trên thế giới về lượng khách quốc tế và là trụ sở của hai hãng hàng không nổi tiếng là Emirates và flydubai.[108] Ngoài vai trò là một trung tâm vận chuyển hành khách quan trọng, sân bay quốc tế Dubai còn là phi cảng hàng hóa đông đúc thứ 7 trên thế giới, vận chuyển 1,927 triệu tấn hàng hóa trong năm 2009, tăng 5,6% so với năm 2008[109] và cũng là sân bay có lượng vận tải hàng không quốc tế đứng thứ 4 trên thế giới.[110] Đến năm 2009, hãng hàng không Emirates - hãng hàng không quốc gia của Dubai - hoạt động quốc tế, phục vụ 101 điểm đến tại 61 nước trên sáu lục địa.[111]

Sự phát triển của sân bay quốc tế Al Maktoum được công bố vào năm 2004. Giai đoạn đầu của sân bay, có một đường băng A380 hoạt động, 64 chỗ đậu máy bay, một nhà ga hàng hóa sức chứa 250.000 tấn hàng hoá. Nhà ga hành khách được thiết kế để phù hợp với năm triệu hành khách/năm đã được khánh thành.[112]. Sân bay chính thức đi vào hoạt động từ ngày 27 tháng 6 năm 2010 [113].


Đường sắt[sửa | sửa mã nguồn]


Một dự án tàu điện ngầm ở Dubai trị giá 3,89 tỉ USD hiện đang hoạt động mặc dù một phần đang còn xây dựng. Ranh giới đường đỏ đang được thực thi và chạy qua trung tâm của thành phố. Hệ thống Metro sẽ đưa vào hoạt động một phần vào tháng 9 năm 2009 và sẽ hoạt động toàn bộ vào năm 2014.[114] Tập đoàn dịch vụ quốc tế Serco Group có trụ sở tại Anh chịu trách nhiệm điều hành tàu điện ngầm. Hệ thống tàu điện ngầm bao gồm Tuyến Xanh lá từ Al Rashidiya đến trung tâm thành phố và Tuyến Đỏ từ sân bay đến Jebel Ali. Tuyến đường Xanh dương và Tím cũng đã được quy hoạch. Tuyến Tím đã được khánh thành vào năm 2012 và Tuyến xanh Dương đã được hoàn thành một năm sau đó. Hệ thống tàu điện ngầm ở Dubai là mạng lưới xe điện đô thị đầu tiên ở bán đảo Ả Rập.[97]. Cho đến năm 2016, tàu điện ngầm Dubai là mạng lưới tàu điện ngầm không người lái dài nhất thế giới với chiều dài 75 km, được công nhận bởi Sách Kỷ lục Guinness năm 2012.[115]

Đường ray Palm Jumeirah là một đường ray ở Palm Jumeirah, nối Palm Jumeirah với đất liền, với một phần mở rộng dài hơn đã được quy hoạch để nối liền với Tuyến Đỏ của hệ thống tàu điện ngầm Dubai.[116] Tuyến đường được khai trương vào ngày 30 tháng 4 năm 2009.[117] Hai hệ thống xe điện dự kiến được xây dựng ở Dubai vào năm 2011. Đầu tiên là hệ thống xe điện khu Burj Khalifa và thứ hai là hệ thống xe điện Al Sufouh. Các xe điện khu Burj Khalifa là một hệ thống dịch vụ xe điện 4,6 km (2,86 dặm), được quy hoạch để phục vụ các khu vực xung quanh Burj Khalifa, và xe điện thứ hai sẽ chạy 14,5 km (9 dặm) dọc theo đường Al Sufouh từ bến cảng Dubai tới Burj Al Arab và khu phố mua sắm của người dân UAE.[118].

Dubai đã công bố sẽ hoàn thành một sự liên kết hệ thống đường sắt cao tốc của UAE, nhằm kết nối với toàn bộ GCC và tiếp theo sau đó có thể là châu Âu. Tuyến đường sắt cao tốc sẽ phục vụ hành khách và hàng hóa.[119][120]


Đường thủy[sửa | sửa mã nguồn]


Có hai cảng thương mại chính tại Dubai: cảng Port Rashid và Jebel Ali. Jebel Ali là cảng nhân tạo lớn nhất thế giới, cảng lớn nhất ở Trung Đông,[121] và là một trong 7 cảng đông đúc nhất trên thế giới.[71] Một trong những phương pháp truyền thống thông dụng để đi từ Bur Dubai đến Deira là thông qua abras, một loại tàu thuyền nhỏ chở hành khách trên sông Dubai Creek, qua các trạm abras giữa Bastakiya và đường Baniyas.[122] Cơ quan Giao thông vận tải hàng hải cũng đã triển khai thực hiện hệ thống xe buýt nổi ở Dubai.[123]



Khu chợ các nước Hồi giáo ở Deira năm 2007.

Nền văn hóa của UAE chủ yếu xoay quanh các tôn giáo của Hồi giáo và văn hóa Ả Rập và dân du cư truyền thống. Ngược lại, các thành phố của Dubai là một xã hội mang tính quốc tế cao với một nền văn hóa đa dạng và sôi động. Sự ảnh hưởng của nền văn hóa Hồi giáo và Ả Rập về kiến trúc, âm nhạc, ẩm thực, trang phục và lối sống cũng rất nổi bật. Người Hồi giáo được kêu gọi cầu nguyện từ những tháp của nhà thờ Hồi giáo nằm rải rác trên khắp đất nước mỗi ngày năm lần. Từ năm 2006, những ngày cuối tuần được chọn là Thứ Sáu và Thứ Bảy, như một sự thỏa hiệp giữa tính thiêng liêng của ngày Thứ Sáu đối với người Hồi giáo và những ngày cuối tuần là Thứ Bảy, Chủ Nhật ở phương Tây.[124]

Trong năm 2005, 84% dân số của Dubai được sinh ra ở nước ngoài, khoảng một nửa trong số đó đến từ Ấn Độ.[55] Dấu ấn văn hóa của thành phố gắn liền với hình ảnh một cộng đồng nhỏ mang tính dân tộc đồng nhất đã thay đổi bởi sự xuất hiện của các nhóm dân tộc và quốc gia - đầu tiên bởi người Iran vào đầu những năm 1900, và sau đó là người Ấn Độ và Pakistan trong những năm 1960. Dubai đã bị chỉ trích vì duy trì một xã hội dựa trên tầng lớp, nơi lao động nhập cư bị xem như thuộc tầng lớp thấp hơn.[125]

Các ngày lễ lớn tại Dubai bao gồm Eid al Fitr, đánh dấu kết thúc tháng chay Ramadan, và Quốc khánh (ngày 02 tháng 12), đánh dấu sự hình thành của UAE. Các sự kiện giải trí hàng năm chẳng hạn như Lễ hội mua sắm ở Dubai (DSF)[126] và lễ hội Mùa hè bất ngờ ở Dubai (DSS) thu hút hơn 4 triệu du khách từ khắp khu vực và tạo ra doanh thu vượt quá 2,7 tỷ USD.[127][128]] Các trung tâm mua sắm lớn tại thành phố như Deira City Center, Mirdiff City Centre, BurJuman, phố mua sắm của UAE, phố mua sắm ở Dubai và phố mua sắm Ibn Battuta cũng như các khu chợ truyền thống Hồi giáo đều thu hút người mua sắm trong khu vực.


Ẩm thực[sửa | sửa mã nguồn]


Thức ăn Ả Rập rất phổ biến và có ở khắp mọi nơi trong thành phố, từ các quán shawarma (một loại thức ăn Ả Rập) nhỏ trong Deira và Al Karama cho tới các nhà hàng trong khách sạn ở Dubai. Thức ăn nhanh, thức ăn Nam Á, và các món ăn Trung Quốc cũng rất phổ biến và được nhiều người biết đến. Việc bán và tiêu thụ thịt heo, dù không phải bất hợp pháp, được quy định chỉ bán cho người không theo Hồi giáo, trong các khu vực được các siêu thị, sân bay.[129] Tương tự, việc bán đồ uống có cồn cũng được quy định. Người mua rượu cần giấy phép, tuy nhiên, rượu có sẵn trong các quán bar và nhà hàng trong khách sạn.[130] Các cửa hàng Shisha (một loại thuốc lá) và cà phê cũng rất phổ biến ở Dubai. Dubai nổi tiếng với cuộc sống về đêm. Do pháp luật về rượu, các câu lạc bộ và quán bar chỉ tìm thấy chủ yếu ở các khách sạn. Tạp chí New York Times miêu tả Dubai là "loại thành phố mà bạn có thể gặp được Michael Jordan tại quán bar Buddha hoặc bất ngờ thấy Naomi Campbell tổ chức sinh nhật của cô".[131]


Lễ hội ẩm thực Dubai[sửa | sửa mã nguồn]


Lễ hội ẩm thực Dubai được tổ chức lần đầu tiên từ ngày 21 tháng 2 đến ngày 15 tháng 3 năm 2014. Theo tạp chí Vision, sự kiện này là nhằm tăng cường và kỷ niệm vị trí của Dubai như là thủ đô ẩm thực của khu vực. Lễ hội được thiết kế để giới thiệu nhiều hương vị và ẩm thực khác nhau được cung cấp ở Dubai với các món ăn của hơn 200 quốc gia tại lễ hội. Lễ hội ẩm thực tiếp theo đã được tổ chức từ ngày 23 tháng 2 năm 2017 đến ngày 11 tháng 3 năm 2017.


Trang phục và phong tục[sửa | sửa mã nguồn]


Nam giới Hồi giáo trong trang phục kandura

Nữ giới Hồi giáo trong trang phục abaya

Không giống như ở nước láng giềng Ả Rập Xê Út, việc ăn mặc theo Hồi giáo ở Dubai là không bắt buộc. Hầu hết nam giới ở UAE mặc kandura, một loại áo vải trắng dài đến mắt cá dệt từ lông cừu hoặc bông, còn hầu hết phụ nữ UAE mặc abaya, một loại áo khoác màu đen, che hầu hết các phần của cơ thể.[132] Loại trang phục này thích hợp tốt với khí hậu nóng và khô của UAE. Tuy nhiên, quần áo kiểu phương Tây vẫn chi phối bởi vì phần lớn dân số là dân di cư, và cách ăn mặc này thực tế đang bắt đầu trở nên phổ biến ở UAE.

Phong tục là một khía cạnh quan trọng trong văn hóa và truyền thống của UAE và du khách cần ăn mặc phù hợp. Gần đây, nhiều người nước ngoài đã coi thường pháp luật và bị bắt giữ do mặc quần áo không đứng đắn hoặc khiếm nhã tại các bãi biển.[133] Trang phục phương Tây được chấp nhận ở những nơi thích hợp như quán bar hay các câu lạc bộ, nhưng UAE vẫn duy trì một chính sách chặt chẽ bảo vệ không gian công cộng khỏi sự thiếu văn hóa.


Giải trí[sửa | sửa mã nguồn]


UAE là một phần của truyền thống dòng âm nhạc khaliji ở Vịnh Ả Rập, và còn được biết đến với dòng nhạc dân gian Bedouin.[134] Những ngày hội đều có ca hát, khiêu vũ với rất nhiều các bài hát và điệu múa truyền thống đã còn sót lại đến ngày nay. Yowalah là điệu nhảy truyền thống của UAE. Những cô gái trẻ sẽ nhảy đu đưa mái tóc đen dài và lắc lư cơ thể theo nhịp điệu mạnh mẽ của âm nhạc. Những người nam sẽ tái diễn các trận chiến hoặc các cuộc đi săn thành công, thường là sử dụng gậy, kiếm hay súng trường để tượng trưng.[135]

Phim Hollywood và Ấn Độ rất phổ biến ở Dubai. Từ năm 2004, thành phố đã chủ trì Liên hoan phim quốc tế hàng năm ở Dubai, đưa ra buổi trình chiếu về những nhân tài làm phim Ả Rập.[136] Các nghệ sĩ âm nhạc như Amr Diab, Diana Haddad, Aerosmith, Santana, Mark Knopfler, Rick Ross, Elton John, Pink, Shakira, Celine Dion, Coldplay, Lady Gaga, Jennifer Lopez, Rihanna, Justin Bieber, Selena Gomez và Roxette[137] từng biểu diễn ở thành phố này.[130]Kylie Minogue được đưa tin là đã được trả 3,5 triệu USD để biểu diễn tại lễ khai mạc khu nghỉ mát Atlantis ngày 20 tháng 11 năm 2008.[138] Lễ hội rock sa mạc ở Dubai cũng là một lễ hội lớn gồm rock nặng và các nghệ sĩ rock.

Rạp chiếu phim lớn nhất ở UAE là Rạp chiếu phim Reel nằm ở Dubai Mall [139].



Bóng đá và cricket là môn hai thể thao phổ biến nhất ở Dubai. Có sáu đội (Al-WASL, Al-Shabab, Al-Ahli, Al Nasr, Dubai C. S. C và Hatta) đại diện cho Dubai trong Liên đoàn bóng đá UAE.[130] Al-WASL là đội có số giải vô địch đứng thứ hai sau Al Ain trong Liên đoàn UAE. Môn Cricket được yêu thích bởi phần lớn cộng đồng người Ấn Độ ở Dubai và các cư dân từ các quốc gia chơi cricket khác (Sri Lanka, Pakistan, Bangladesh, Anh, Úc và Nam Phi). Năm 2005, Hội đồng Cricket quốc tế (ICC) đã chuyển trụ sở từ Luân Đôn đến Dubai. Thành phố có tổ chức một số trận đấu của Pakistan và có hai sân cỏ mới đang được phát triển tại Thành phố Thể thao Dubai.[140] Dubai cũng tổ chức giải vô địch quần vợt Dubai, giải quần vợt Huyền thoại Rock Dubai, giải golf kinh điển tại sa mạc Dubai và giải vô địch thế giới Dubai, tất cả đều thu hút các ngôi sao thể thao từ khắp nơi trên thế giới. Người Ả Rập rất yêu thích truyền thống đua ngựa. Dubai World Cup là một giải đua ngựa thuần chủng, được tổ chức hàng năm tại trường đua ngựa Meydan.[141]



Hệ thống trường học ở Dubai không khác với hệ thống các trường ở UAE. Đến năm 2009, có 79 trường công lập do Bộ Giáo dục quản lý với đối tượng hướng đến là người dân UAE và người Ả Rập nhập cư. Ngoài ra còn có 145 trường học tư nhân.[50] Ngôn ngữ giảng dạy trong các trường công là tiếng Ả Rập và nhấn mạnh về việc xem tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai, trong khi đó hầu hết các trường tư nhân sử dụng tiếng Anh như phương tiện giảng dạy chính. Hầu hết các trường tư nhân phục vụ cho một hoặc nhiều cộng đồng người nước ngoài.

Trường Ấn Độ hiện đại mới (NIMS), Trường tư thục Delhi, Trường trung học Our Own English, Trường trung học hiện đại Dubai, và Trường trung học Ấn Độ ở Dubai đào tạo cấp bằng Ấn Độ dành cho chương trình trung học sử dụng giáo trình Ấn Độ (bằng CBSE). Tương tự như vậy, cũng có một số trường học có uy tín của Pakistan cung cấp chương trình giảng dạy FBISE cho trẻ em nước ngoài.[142]

Trường tiếng Anh Dubai, Trường tiểu học Jumeirah, Trường tiểu học Jebel Ali, Trường học quốc tế Cambridge, Trường tiếng Anh Jumeirah, Trường King'sTrường Horizon cung cấp chương trình giáo dục tiểu học bằng tiếng Anh cho trẻ em dưới mười một tuổi. Trường tư thục Dubai Gem, Trường Dubai British, Cao đẳng Dubai, Cao đẳng tiếng Anh Dubai, Trường tiếng Anh Jumeirah, Cao đẳng JumeirahTrung học Thiên Chúa giáo St Mary's là những trường dành cho lứa tuổi từ 11 đến 18, cấp bằng tốt nghiệp giáo dục trung học và bằng A.

Trường học quốc tế của UAE, Trường trung học CambridgeTrường quốc tế Wellington cung cấp chế độ giáo dục đầy đủ cho học sinh đến 18 tuổi, cấp bằng tốt nghiệp giáo dục trung học và bằng A quốc tế. Trường quốc tế Deira, Học viện quốc tế DubaiTrường tiếng Anh Jumeirah cung cấp chương trình Tú tài quốc tế với chương trình IGCSE. Học viện Hoa Kỳ Dubai, Trường Hoa Kỳ DubaiTrường Hoa Kỳ phổ thông Dubai cung cấp chương trình giảng dạy của Hoa Kỳ.[142]

Bộ Giáo dục của UAE chịu trách nhiệm cấp phép cho các trường học. Hội đồng tri thức và phát triển con người (KHDA) được thành lập vào năm 2006 để phát triển các lĩnh vực giáo dục và nguồn nhân lực tại Dubai, và các viện giáo dục cấp giấy phép.[143]

Khoảng 10% dân số có bằng đại học hoặc sau đại học. Nhiều người nước ngoài có xu hướng cho con cái mình quay lại đất nước của họ hoặc đến các nước phương Tây để học đại học, đến Ấn Độ để học về kĩ thuật công nghệ. Tuy nhiên, một lượng đáng kể các trường đại học được công nhận của nước ngoài đã được thành lập ở thành phố này trong khoảng mười năm qua. Trong các trường đại học này có Trường quản trị Manchester,[144]Đại học bang Michigan ở Dubai (MSU Dubai),[145]Đại học Middlesex,[146]Viện Công nghệ & Khoa học Birla, Pilani - Dubai (BITS Pilani), Đại học Murdoch Dubai, Đại học Heriot-Watt Dubai, Trường quản trị quốc tế Hult, Đại học Hoa Kỳ Dubai (AUD), Trường cao đẳng Hoa Kỳ Dubai, Đại học Mahatma Gandhi, Viện Quản lý Công nghệ - Campus Dubai, Trung tâm quản lý SP Jain, Đại học Wollongong DubaiManipal Mahe. Năm 2004, Trường công lập Dubai cộng tác với Đại học công lập Harvard của John F. Kennedy và Trường y Harvard trung tâm Dubai (HMSDC) đã được thành lập tại Dubai. Trong năm 2010, Cao đẳng thời trang Luân Đôn bắt đầu đầu tư các khóa học thời trang ngắn hạn hai lần hàng năm. Ngoài ra, Dubai còn có hệ thống thư viện công cộng.[147]



Dubai có một mạng lưới vững chắc về in ấn, vô tuyến, truyền hình và các phương tiện truyền thông điện tử phục vụ thành phố. Dubai là trung tâm của mạng vô tuyến Ả Rập, phát sóng 8 đài FM bao gồm các đài phát thanh đầu tiên ở Trung Đông và đài Mắt Dubai 103,8. Những đài phát thanh ở Dubai như Dubai FM (93,9), Dubai92 (92,0), Al Khaleejia (100,9) và Hit FM (96,7) cung cấp các chương trình bằng tiếng Anh, tiếng Ả Rập và những ngôn ngữ Nam Á. Nhiều kênh quốc tế có thể xem qua cáp, trong khi vệ tinh, phát thanh, kênh địa phương được cung cấp qua mạng vô tuyến Ả Rập và các hệ thống truyền thông hợp nhất ở Dubai. Đài phát thanh tiếng Anh phổ biến nhất của UAE là Channel 4 FM, phát sóng lần đầu vào năm 1997 và đã trở thành đài phát thanh thương mại tư nhân đầu tiên ở UAE.

Etisalat, nhà cung cấp dịch vụ viễn thông của chính phủ, nắm độc quyền về ưu tiên về dịch vụ viễn thông tại Dubai so với công ty viễn thông khác hay những công ty viễn thông nhỏ hơn như Công ty Viễn thông Emirates tích hợp (EITC - tên phổ biến hơn là Du) vào năm 2006. Năm 1995, Internet đã được dưa vào UAE (cũng như Dubai). Mạng lưới vào năm 2007 có băng thông Internet là 7,5 Gbit/giây với công suất của 49 liên kết STM1.[148] Dubai nắm giữ hai trong bốn trung tâm dữ liệu hệ thống tên miền (DNS) trong nước (DXBNIC1, DXBNIC2).[149] Cơ quan kiểm duyệt rất phổ biến ở Dubai và được chính phủ sử dụng để kiểm soát những nội dung được cho là có thể xâm phạm văn hóa và chính trị của Emiratis.[150]Đồng tính luyến ái, ma túy và các thuyết tiến hóa thường được coi là điều cấm kị.[151]

Nội dung Internet được điều chỉnh tại Dubai. Etisalat sử dụng một máy chủ proxy để lọc những nội dung Internet mà chính phủ đánh giá không phù hợp với tinh thần quốc gia, chẳng hạn như trang web cung cấp thông tin về làm thế nào để vượt qua proxy, các trang web liên quan đến hẹn hò, các mạng đồng tính, và ảnh khiêu dâm, các trang web liên quan đến đức tin Bahá'í cùng các trang có nguồn gốc từ Israel.[152] Cục truyền thông và Internet các tiểu vương quốc (một cơ quan của Etisalat) cho biết rằng, cũng như năm 2002, 76% người dùng Internet là nam giới. Khoảng 60% người dùng Internet là người Châu Á, chỉ có 25% là người Ả Rập. Năm 2002, Dubai đã ban hành luật Thương mại và giao dịch điện tử, đề cập đến chữ ký điện tử và sổ đăng ký điện tử. Điều luật cấm các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) tiết lộ những thông tin mở trong các dịch vụ cung cấp.[153] Các điều luật hình sự quy định chính thức về việc cấm truy cập kỹ thuật số đến nội dung khiêu dâm. Tuy nhiên, luật không đề cập đến tội phạm mạng cũng như việc bảo vệ dữ liệu không gian mạng.[154]




Dubai có 32 thành phố đối tác, hầu hết các thỏa thuận hợp tác đều được thực hiện sau năm 2002.[155][156]








  • Syed Ali. Dubai: Gilded Cage (Yale University Press; 2010) 240 pages. Focuses on the Arab emirate's treatment of foreign workers.

  • Heiko Schmid: Economy of Fascination: Dubai and Chicago as Themed Urban Landscapes, Berlin, Stuttgart 2009, ISBN 978-3-443-37014-5.

  • John M. Smith: Dubai The Maktoum Story, Norderstedt 2007, ISBN 3-8334-4660-9.


  1. ^ Area of "Dubai emirate", includes artificial islands.

  2. ^ “Gross Domestic Product at Current Prices 2016 - Emirate of Dubai” (PDF). Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2017. 

  3. ^ “United Arab Emirates: metropolitan areas”. World-gazetteer.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  4. ^ The Government and Politics of the Middle East and North Africa. D Long, B Reich. p.157

  5. ^ “The 2008 Global Cities Index”. Foreign Policy. Ngày 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2010. 

  6. ^ a ă Oil share dips in Dubai GDP AMEInfo (ngày 9 tháng 6 năm 2007) Retrieved on ngày 15 tháng 10 năm 2007.

  7. ^ Dubai economy set to treble by 2015 ArabianBusiness. com (ngày 3 tháng 2 năm 2007) Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  8. ^ a ă “Dubai diversifies out of oil”. AMEInfo. Ngày 7 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2008. 

  9. ^ Mike Davis (2006) Fear and Money in Dubai, New Left Review 41, pp. 47–68

  10. ^ a ă “Job losses hasten property decline in Dubai but medium-long term outlook upbeat | Middle East | News”. Propertywire.com. Ngày 3 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  11. ^ a ă vn/Default.aspx?tabid=232&CategoryID=168&News=182 DUBAI - Quốc tế và hiện đại Bộ khoa học và công nghệ. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  12. ^ Dubai Silicon Oasis dubaionline.com. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  13. ^ emiratesfreezone Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  14. ^ Dubai Silicon Oasis Technology Incubator To Support Startups Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  15. ^ Environmental Development and Protection in the UAE. Aspinall, Simon

  16. ^ “Historic population statistics” (PDF). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  17. ^ a ă Dubai Map Truy cập 9 tháng 3 năm 2011.

  18. ^ Hamour facing extinction Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011.

  19. ^ Flora and fauna of Dubai gowealthy. com

  20. ^ Natural UAE UAE Interact Retrieved ngày 29 tháng 4 năm 2010

  21. ^ Climate in Dubai across the year. Dubai Meteorological office.

  22. ^ “Climate (Average Temperatures:1977–2015;Precipitation:1967-2009)”. Dubai Meteorological Office. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2008. 

  23. ^ “Dubai, Emirates”. Climatebase.ru. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2013. 

  24. ^ “Climate Normals for Dubai”. National Oceanic and Atmospheric Administration. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2013. 

  25. ^ Organizational Chart. Dubai Municipality

  26. ^ “Dubai Municipality's e-government initiative” (PPT). Ngày 2 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010. 

  27. ^ Wheeler, Julia (ngày 13 tháng 10 năm 2008). “Raw sewage threat to booming Dubai”. BBC News. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  28. ^ “Background on the United Arab Emirates (UAE) Legal System”. Gulf-Law.com. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010. 

  29. ^ “Dubai – UAE Consulate of the United States”. Consulate of the United States. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  30. ^ “Human Rights Watch – Building Towers, Cheating Workers: Exploitation of Migrant Construction Workers in the United Arab Emirates”. Hrw.org. Ngày 11 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  31. ^ “UAE to Allow Construction Unions”. BBC News. Ngày 30 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  32. ^ “Dubai Fire Investigation Launched”. BBC News. Ngày 19 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  33. ^ Labour unrest hampers Burj Dubai work Khaleej Times (AP report), ngày 22 tháng 3 năm 2006

  34. ^ "Burj Dubai workers who protested may be sued" Khaleej Times, ngày 24 tháng 3 năm 2006

  35. ^ Labour in the UAE Gulf News articles on Labour Law in the UAE, protests, etc

  36. ^ “Burj Dubai strike continues”. AMEinfo. Ngày 8 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010. 

  37. ^ “The dark side of Dubai”. The Independent (Luân Đôn). Ngày 7 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  38. ^ Vietnamnet (27 tháng 3 năm 2006). “Tiếng khóc của những lao động châu Á ở Dubai”. VietNamNet. Truy cập 26 tháng 1 năm 2016. 

  39. ^ UAE to allow construction unions BBC News, ngày 30 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2006.

  40. ^ UAE plans to form labour unions, legalise collective bargaining Khaleej Times. ngày 30 tháng 3 năm 2006.

  41. ^ a ă Mimi Chakarova. Dubai: Night Secrets, PBS Frontline, ngày 13 tháng 9 năm 2007

  42. ^ New York Times – Fearful of Restive Foreign Labor, Dubai Eyes Reforms

  43. ^ a ă â Karin, Luiza (tháng 9 năm 1999). “Modernity and tradition in Dubai architecture by Luiza Karim”. alshindagah.com. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  44. ^ Hadjari, Karim. “3D Modelling and Visualisation OF Al Baskita in Dubai IN Dubai, United Arab Emerites” (PDF). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  45. ^ “Tourism in Dubai” (PDF). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  46. ^ Lahmeyer, Jan (2001). “The United Arab Emigrates – Historical demographical data of the urban centers”. .populstat. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  47. ^ Heard-Bey, Frauke. “The Tribal Society of the UAE and its Traditional Economy” (PDF). uaeinteract.com. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  48. ^ “Census 2005 U. A. E.”. tedad.ae. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  49. ^ a ă Younes, Bassem. “Roundabouts vs. Intersections: The Tale of Three UAE Cities” (PDF). ite.org. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  50. ^ a ă “Dubai in Figures 2009. Government of Dubai. Statistical Center”. Dsc.gov.ae. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2010. 

  51. ^ https://www.dsc.gov.ae/Report/Copy%20of%20DSC_SYB_2016_01%20_%2003.pdf

  52. ^ “Cost of living — The world's most expensive cities”. City Mayors. 

  53. ^ “Dubai population jumps 4.8 per cent to 2.17m”. UAE interact. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2014. 

  54. ^ “Dubai Metropolitan Statistical Area”. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2009. 

  55. ^ a ă "Country and Metropolitan Stats in Brief. MPI Data Hub

  56. ^ "Young Iranians Follow Dreams to Dubai" The New York Times, by Hassan M. Fattah. Published: ngày 4 tháng 12 năm 2005

  57. ^ a ă “HSBC Reveals "The Future of Retirement: What the World Wants" Survey Results” (PDF). HSBC. Ngày 26 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010. 

  58. ^ Population in Dubai Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011.

  59. ^ Languages spoken in Dubai Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010.

  60. ^ a ă gov/frd/cs/profiles/UAE.pdf Country Profile: United Arab Emirates (UAE). United States Library of Congress

  61. ^ Religion in Dubai. Dubaidreams

  62. ^ “International Religious Freedom Report 2007 – United Arab Emirates”. State.gov. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  63. ^ “Dubai sắp hoàn tất đảo nhân tạo lớn nhất thế giới”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập 26 tháng 1 năm 2016. 

  64. ^ “Dubai's gross domestic product is expected to reach US$107.1 billion, posting a growth rate of 6.1% in 2014 and exceeding Dubai government's estimates of 5%, according to Citibank.”. Zawya Thomson Reuters. 14 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2015. 

  65. ^ “Dubai – Overview”. USA Today. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007. 

  66. ^ Dubai's oil discovery and Dubai's debt Moneycontrol Business News. 4 Feb 2010.

  67. ^ “UAE Oil and Gas”. Uae.gov.ae. Ngày 19 tháng 6 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  68. ^ Prospects of Dubai Economic Sectors. Dubai Chamber of Commerce. 2003

  69. ^ “Foreign direct trade” (PDF). Dubai Statistics Centre. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2010. 

  70. ^ "Dubayy". Encyclopedia Britannica. 2008

  71. ^ a ă “World Port Rankings – 2008” (PDF). American Association of Port Authorities. Ngày 15 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2010. 

  72. ^ Armitstead, Louise (ngày 20 tháng 11 năm 2008). “Dubai's Palm Jumeirah sees prices fall as crunch moves in”. The Daily Telegraph (Luân Đôn). Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2008. 

  73. ^ “World's Tallest Hotel Opens Its Doors”. BBC News. Ngày 1 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009. 

  74. ^ “Citgy Mayors: World's best financial cities”. Citymayors.com. Ngày 10 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009. 

  75. ^ “World's richest cities by purchasing power”. City Mayors. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009. 

  76. ^ “MW-IndexRpt-CoComm FA.indd” (PDF). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2008. 

  77. ^ "Laid-Off Foreigners Flee as Dubai Spirals Down" article by Robert F. Worth in The New York Times ngày 11 tháng 2 năm 2009

  78. ^ Warner, Jeremy (ngày 27 tháng 11 năm 2009) Dubai is just a harbinger of things to come for sovereign debt. The Telegraph

  79. ^ Abu Dhabi Tightens Its Grip as It Offers Help to Dubai, New York Times Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.

  80. ^ nd5-dt.72605.123124.html Abu Dhabi cấp 10 tỷ USD cho Dubai, tinkinhte.com Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.

  81. ^ Abu Dhabi [Unlikely to Pay All Dubai's Debts/Graciously Assisting Sovereign Brother] Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.

  82. ^ Jacobs, Deborah L. “Most Visited Cities In The World 2013”. Forbes. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2014. 

  83. ^ “Dubai attracts 15.79 million visitors in 2017”. Dubai Tourism Board. 

  84. ^ El Sayed, Saad (ngày 21 tháng 12 năm 2004). “Dubai Hotels Post 42% Revenue Growth”. Press Release. Government of Dubai. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010. 

  85. ^ Duabi.. Ashopping paradise. eyeofdubai. com

  86. ^ Shopping in Dubai Dept. of tourism and commerce

  87. ^ Dubai guide Eye of dubai. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.

  88. ^ Krane, Jim (tháng 9 năm 2009). City of Gold: Dubai and the Dream of Capitalism. St. Martin's Press. ISBN 978-0-312-53574-2. 

  89. ^ Karim, Luiza Modernity and tradition in Dubai architecture. AlShindagah, 1999

  90. ^ Design of Burj Khalifa. burjkhalifa.ae. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.

  91. ^ “World's Ten Tallest Cities”. Ultrapolis Project. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010. 

  92. ^ "Calculated Average Height of the Twenty-five Tallest (CAHTT)", UltrapolisProject. com. Truy cập 2010-11-03.

  93. ^ [http://login.dm.gov.ae/wps/wcm/connect/677d22804787d4c0b5fbff76f28f91dc/DM-strategicplan-en.pdf?MOD=AJPERES&CACHEID=677d22804787d4c0b5fbff76f28f91dcóÞo�0 0ìô4� “Strategic Plan of Dubai Municipality 2007–2011”] (PDF). Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010. 

  94. ^ Dubai Municipality to build historic Holy Quran Park UAEinteract

  95. ^ Haslam, Chris (ngày 23 tháng 11 năm 2008) Poo-bai: floods of sewage threaten Dubai beaches The Sunday Times. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.

  96. ^ Wheeler, Julia (ngày 13 tháng 10 năm 2008) Raw sewage threat to booming Dubai

  97. ^ a ă “Will metro change Dubai car culture?”. BBC News. Ngày 11 tháng 9 năm 2009. 

  98. ^ “Gulfnews: Dubai traffic woes inflict losses of Dh4.6b a year”. Archive. gulfnews.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  99. ^ “Gulfnews: Public transport regains allure as Car-free Day gets under way”. Archive. gulfnews.com. Ngày 17 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010. 

  100. ^ “Gulfnews: Rta wants 30 of dubai residents on public transport”. Archive. gulfnews.com. Ngày 21 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010. 

  101. ^ “Dubai Overtakes Cairo in Traffic Congestion - GulfTalent.com”. GulfTalent. com<!. Ngày 7 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  102. ^ Completed projects. RTA Dubai

  103. ^ “Dubai buses may be privatised – The National Newspaper”. Thenational.ae. Ngày 8 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  104. ^ “Gulfnews: Air-conditioned bus shelters for Dubai”. Archive. gulfnews.com. Ngày 6 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2006. 

  105. ^ Dubai Transportation dubaicity. com

  106. ^ “Gulfnews: Dubai Metro gives boost to public transport in city”. Archive. gulfnews.com. Ngày 6 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010. 

  107. ^ “Dubai Taxi Corporation”. Dtc. dubai.ae. Ngày 29 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2010. 

  108. ^ Dubai world’s sixth busiest airport “uaeinteract”. Dubai Airport. 2009. Truy cập Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011. 

  109. ^ “Dubai International Airport”. Dubai Airport. 2010. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009. 

  110. ^ “Year to date International Freight Traffic”. Airports Council International. 15 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010. 

  111. ^ “Emirates Announces 2009 Expansion Plan – Airline to increase capacity by 14 per cent”. Emirates Airline. 18 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010. 

  112. ^ “Al Maktoum International airport begins operations”. Gulf News. 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010. 

  113. ^ “Dubai World Central celebrates inauguration of Al Maktoum International Airport”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2016. 

  114. ^ “Dubai RTA – Dubai Metro – Blue Line”. zawya. Ngày 11 tháng 9 năm 2009. 

  115. ^ “Dubai in Guinness for longest driverless metro - Khaleej Times”. 

  116. ^ “Middle East's first monorail to start services in Palm Jumeirah by April”. Gulf News. 7 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2008. 

  117. ^ “Palm monorail tried and tested”. Timeoutdubai. 6 tháng 5 năm 2009. Truy cập 2010-48-29. 

  118. ^ Al Sufouh tram dubaifaqs. com

  119. ^ “The GCC Rail Revolution”. Railway- technology.com. 29 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009. 

  120. ^ “GCC Rail Network”. zawya projects. 14 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010. 

  121. ^ “Port of Jebel Ali”. worldportsource.com. 14 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010. 

  122. ^ Abra-services dubai-online

  123. ^ “RTA launches Water Bus System on Dubai Creek”. AMEinfo. 16 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010. 

  124. ^ Jonathan Sheikh-Miller. “UAE Weekend Switchover”. AMEinfo. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2010. 

  125. ^ The Dark Side of Dubai, Johann Hari, The Independent, ngày 7 tháng 4 năm 2009.

  126. ^ Dubai Shopping Festival 2011 More Details

  127. ^ DSF Milestones. Dubaicityguide

  128. ^ Sales will account for 8% of Dubai's GDP. Gulf News. 3 May 2009.

  129. ^ pdf&rct=j&q=Food%20and%20Agricultural%20Import%20Regulations%20and%20Standards%20dubai&ei=hN9cTYXWBorQcfy0qY4K&usg=AFQjCNFzjn2WVZTBbk4iv5kBhGZM56s4fg&cad=rja United Arab Emirates Food and Agricultural Import Regulations and Standards Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  130. ^ a ă â Dubai Culture dubai-livethedream. com

  131. ^ Sherwood, Seth (9 tháng 12 năm 2007). srch=1&WT. mc_ev=click&WT. mc_id=TR-S-E-GG-NA-CT-dubai_travel “Clubs Bloom in the Desert”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  132. ^ “Clothing in the UAE”. Grapeshisha.com. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009. 

  133. ^ “Blame Europeans for topless displays, British women say”. Gulfnews. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009. 

  134. ^ “Welcome to Abu Dhabi – Literature and Poetry”. Visitabudhabi.ae. 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009. 

  135. ^ “Photo of the week”. Gulf News. 2006-09=21. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  136. ^ “About Dubai Film Festival (DFF)”. 7th Dubai International Film Festival. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  137. ^ “du sponsors AR Rahman Live in Concert”. ameinfo.com. 16 tháng 4 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010. 

  138. ^ Ferris-Lay, Claire (11 tháng 9 năm 2008). was-paid-35mn-for-atlantis-gig “Kylie 'being paid $3.5mn' for Atlantis gig”. Arab Business.com. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  139. ^ “Cinema at Dubai Mall”. yagulf.com. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2016. [liên kết hỏng]

  140. ^ ICC moves to new headquarters in Sports City. Gulf News 18 April 2009

  141. ^ Traditional Sports in Dubai, Abu Dhabi and the UAE Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011.

  142. ^ a ă List of schools in Dubai Dubai school finder. Truy cập 7 May 2010.

  143. ^ About KHDA, KHDA. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.

  144. ^ “Global MBA programmes”. University of Manchester Business School. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  145. ^ “About MSU Dubai”. Michigan State University – Dubai. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. 

  146. ^ “Dubai”. Middlesex University. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2010. 

  147. ^ About DPL Dubai Government

  148. ^ “Etisalat ramps up UAE bandwidth”. arabianbusiness.com. 11 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2010. [liên kết hỏng]

  149. ^ Hashim, Abdulla (5 tháng 5 năm 2005). “UAEnicat a Glance” (PDF). isoc.org. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010. 

  150. ^ United Arab Emirates. OpenNet Interactive. 2008

  151. ^ Jack, Malvern (16 tháng 2 năm 2009). “Geraldine Bedell's novel banned in Dubai because of gay character”. Luân Đôn: TimesOnLine. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010. 

  152. ^ “Internet Filtering in the United Arab Emirates in 2004-2005: A Country Study”. OpenNet Initiative. 5 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010. 

  153. ^ “Electronic Transactions and Commerce Law No.2/2002”. Dubai Technology and Media Free Zone Authority. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010. 

  154. ^ Silenced – United Arab Emirates. Privacy International (21 September 2003). Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.

  155. ^ “Dubai’s sister cities”. dubaicityguide. 

  156. ^ “Twinning Cities Agreements”. UAE Official Website. 

  157. ^ “Twinning agreement brings a taste of Spain to Dubai UAE – The Official Web Site – News”. Uaeinteract.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  158. ^ “Dynamic Busan – City Government – Sister Cities – Dubai”. English. busan.go.kr. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  159. ^ “Dubai, Detroit ink sister-city accord UAE – The Official Web Site – News”. Uaeinteract.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  160. ^ “Dubai, Granada discuss cooperation UAE – The Official Web Site – News”. Uaeinteract.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  161. ^ “Los Angeles cultural body takes Dubai as sister city UAE – The Official Web Site – News”. Uaeinteract.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 

  162. ^ “Dubai partners with the U. S. city of Phoenix UAE – The Official Web Site – News”. Uaeinteract.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009. 




No comments:

Post a Comment