Thursday 18 October 2018

George H. W. Bush – Wikipedia tiếng Việt



George Herbert Walker Bush (còn gọi là George Bush (cha), sinh ngày 12 tháng 6 năm 1924) là Tổng thống thứ 41 của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (1989–1993).

Trước khi trở thành Tổng thống, Bush từng là một Dân biểu Hoa Kỳ của tiểu bang Texas (1967-1971), Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc (1971-1973), Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hòa (1973-1974),
Trưởng Văn phòng Đại diện Hoa Kỳ tại Trung Quốc (1974-1976), Giám
đốc CIA (1976-1977), Chủ tịch Ngân
hàng Quốc tế I tại Houston (1977-1980), và là Phó Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Ronald Reagan (1981-1989). Là một
phi công hải quân được tặng thưởng huân chương, Bush là cựu chiến binh cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai phục vụ như là một Tổng thống Hoa Kỳ.





George H. W. Bush hồi nhỏ.

George Herbert Walker Bush được sinh ra ở Milton, Massachusetts cha là Prescott Bush thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đại diện cho tiểu bang Connecticut và mẹ là Dorothy Walker Bush. Cậu được đặt tên theo ông ngoại là George Herbert Walker, Sr..

Bush bắt đầu đi học ở Trường Greenwich Country ở Greenwich, Connecticut, rồi theo học Phillips Academy ở Andover, Massachusetts từ 1936 đến 1942.


Chiến tranh thế giới thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]


Sau khi tốt nghiệp Phillips Academy vào tháng 6 năm 1942, Bush gia nhập Hải quân Hoa Kỳ vào ngày cậu
tròn 18 tuổi và muốn trở thành một phi công. Sau một khóa học kéo dài 10 tháng, Bush được phân công về
Dự bị Hải quân vào tháng 6 năm 1943, vài ngày trước khi tròn 19 tuổi, được xem như là phi công
hải quân trẻ tuổi nhất lúc đó.

Sau khi được huấn luyện, Bush được phân công về phi đội Torpedo (VT-51) với vai trò sĩ quan
không ảnh vào tháng 9 năm 1943, phi đội này thuộc Hàng không Mẫu hạm USS San Jacinto vào năm 1944.

Vào ngày 2 tháng 9 năm 1944, Bush lái một trong 4 chiếc máy bay của phi đội VT-51 tấn công vào
những địa điểm đóng quân của Phát xít Nhật ở Chichi Jima. Máy bay của Bush bị bắn rơi nhưng Bush được cứu sống.

Bush sau đó quay về lại San Jacinto vào tháng 11 năm 1944 và tham gia các trận chiến ở Philippines.

Khi San Jacinton quay lại Guam, phi đội, đã tổn thất nặng nề, được thay thế và được gửi về Hoa Kỳ.
Cho đến hết 1944, Bush đã bay 58 phi vụ không kích và được đón nhận huân chương Distinguished Flying Cross,
3 Huân chương Không lực (Air Medals), Presidential Unit Citation được trao tặng trên San Jacinto.

Sau những kinh nghiệm chiến trường quý báu này, Bush được phân công về [[Căn cứ Hải quân
Norfolk]] và được huấn luyện để trở thành phi công phóng thủy lôi. Sau đó Bush được phân công
với vai trò là một phi công trong phi đội torpedo mới, VT-153.

Với sự đầu hàng của phát xít Nhật, Bush được giải ngũ trong danh dự vào tháng 9 năm 1945 và
vào Đại học Yale.

Vào năm 2003, hàng không mẫu hạm USS George H.W. Bush, thuộc lớp Nimitz bắt đầu được đóng
cho Hải quân Hoa Kỳ, và đã hoàn thành vào năm 2009.


Sau chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]



Khi tại Yale, Bush tham gia Delta Kappa Epsilon và được bầu là chủ tịch hội. Vào năm cuối, cũng như người con trai sau này George W. Bush (1968) and và cha Prescott S. Bush (1917), ông Bush được kết nạp vào hội bí mật Skull and Bones vào năm 1948, giúp ông xây dựng những mối quan hệ và ủng hộ về mặt chính trị. Thành viên của Skull and Bones đã giúp đỡ rất nhiều trong chiến dịch tranh cử tổng thống của ông về sau này bằng những chiến dịch quyên tiền quảng cáo khá lớn.

George H.W Bush thành hôn với Barbara Pierce vào ngày 6 tháng 1 năm 1945. Họ có sáu người con: George W., Pauline Robinson ("Robin") (1949–1953, mất vì leukemia), John (Jeb), Neil, Marvin, và Dorothy Walker.







No comments:

Post a Comment