Thursday, 18 October 2018

Nguyễn Phúc Cảnh – Wikipedia tiếng Việt


Nguyễn Phúc Cảnh (chữ Hán: 阮福景; 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), thường gọi là Hoàng tử Cảnh (皇子景). Ông là con trưởng của Gia Long - người sáng lập ra triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.





Ông sinh ngày Tân Tỵ tháng 3 (âm lịch) năm Canh Tý, tức ngày 6 tháng 4, năm 1780 [1] tại Gia Định. Mẹ ông là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống thị.

Mùa hạ năm Quý Mão (1783), Gia Long nhờ Giám mục Bá Đa Lộc (tục gọi là Cha Cả) sang Pháp cầu viện, Hoàng tử Cảnh (khi đó mới 3 tuổi) theo làm con tin.

Tháng 7 năm 1789, Nguyễn Phúc Cảnh và Bá Đa Lộc về đến Sài Gòn. Cùng theo có một số người Pháp như: Philippe Vannier (tên Việt là Nguyễn Văn Chấn), Jean Baptiste Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng).

Mùa xuân năm Quý Sửu (1793), Gia Long lập ông làm Đông Cung, được phong là Nguyên Súy Quận công (元帥郡公), được dựng phủ Nguyên Súy, được ban ấn Đông cung chi ấn. Cử các danh sĩ đương thời là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu lo việc giảng học cho ông. Trong thời gian ở ngôi Đông cung, Nguyễn Phúc Cảnh từng được giao trấn giữ những nơi trọng yếu như Gia Định, Diên Khánh.

Mùa xuân năm Tân Dậu (1801), ông bị bệnh đậu mùa và mất vào ngày 7 tháng 2 năm Tân Dậu (tức 20 tháng 3 năm 1801)[2], hưởng dương 21 tuổi. Ngày hoàng tử Cảnh mất, Gia Long đang ở ngoài mặt trận nên không thể dự đám tang của con được.

Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh được an táng tại huyện Bình Dương thuộc phủ Tân Bình trấn Gia Định (nay là xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn). Năm Ất Sửu (1805), ông được truy phong là Anh Duệ Hoàng thái tử (英睿皇太子).

GS. Nguyễn Khắc Thuần nhận xét:


Mới ba tuổi đầu đã phải bị đưa làm con tin, lênh đênh khắp chân trời góc biển, đó là một bạc phước. Ở ngôi Đông cung chưa được bao lâu, tuổi thanh xuân đang bừng sức sống mà bỗng dưng mắc bệnh đậu mùa rồi mất, đó là hai lần bạc phước. Hành trạng của Hoàng tử Cảnh đúng sai thế nào, hậu thế sẽ bàn sau, nhưng xét phận riêng đắng cay chìm nổi như thế, kể cũng là đáng thương lắm thay! [3].

Nguyễn Phúc Cảnh mất, để lại một vợ là Tống Thị Quyên (宋氏涓) và hai con là Nguyễn Phúc Đán (阮福旦), còn gọi là Hoàng tôn Đán[4]; và Nguyễn Phúc Kính, còn gọi là Hoàng tôn Kính[5].

Lược thuật theo Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, Quyển 2):


Trước đây, thấy vua (Gia Long) ở ngôi mà tuổi đã cao, các quan liền xin lập ngôi trừ vị[6] trong số đó, có người đề nghị thẳng là nên lập Hoàng tôn Đán[7] nhưng vua không nghe.[8]

Sau, Gia Long lập Nguyễn Phúc Đảm, em cùng cha khác mẹ với Hoàng tử Cảnh, làm người nối ngôi. Đại Nam chính biên liệt truyện kể tiếp:


Năm Minh Mạng thứ năm (1824), có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị. Tống thị vì thế bị [Lê Văn Duyệt] dìm nước cho chết, còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín và dây thao, đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân, con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất.

Năm Minh Mạng thứ bảy (1826), Mỹ Thùy lại bị quân lính ở đạo Dực Chẩn kiện, sắp bị đưa cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh mà mất, lúc ấy chưa có con cái gì. Vua cho lấy con trưởng của Mỹ Đường là Lệ Chung, tập phong làm Ứng Hòa Hầu để lo việc phụng thờ Anh Duệ Hoàng thái tử [tức Hoàng tử Cảnh]... Đến năm thứ tám (1827), đổi phong (Lệ Chung) làm Thái Bình Hầu...

Năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vì sợ con cái của Lệ Chung nhờ cha mà hưởng phúc ấm, nên triều thần lại tiếp tục nghị tội, buộc con trai con gái của Lệ Chung là Lệ Ngân, Thị Văn, Thị Dao đều phải giáng làm thứ nhân. Mãi đến năm Tự Đức thứ hai (1848), khi Mỹ Đường bị bệnh mất, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh mới tạm yên ở phận dân thường.

Sách Việt sử giai thoại có lời bàn:


Thời ấy, có hai tội thuộc hàng đại ác không thể tha, ấy là bất trung và thất đức. Bất trung thì con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, vậy thì Minh Mạng muốn được yên vị trên ngai, ắt phải khép Mỹ Đường vào tột thất đức là thông dâm với mẹ. Ôi, giá mà Mỹ Đường chẳng phải cháu đích tôn của Gia Long thì đời ông sẽ êm thấm biết ngần nào... [9]

Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là cháu năm đời của Hoàng tử Cảnh.




  1. ^ Ghi theo sử nhà Nguyễn là Quốc triều chính biên toát yếu (Nhà xuất bản Văn học, 2008, tr. 28). Có sách ghi khác.

  2. ^ Theo website [1].

  3. ^ Theo Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại (Tập 8), Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr 11-12.

  4. ^ Sau đổi tên theo Phiên hệ thi thành Mỹ Đường (美堂).

  5. ^ Sau đổi tên theo Phiên hệ thi thành Mỹ Thùy (美垂).

  6. ^ Tức là ngôi dành cho người sẽ lên làm vua sau này.

  7. ^ Phe ủng hộ Hoàng tôn Đán kế vị có Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt.

  8. ^ Tác giả A. Schreiner viết: khi quyết định người kế vị, Gia Long đã chọn người con của một thứ phi mà không phải là người cháu dòng đích. Có lẽ Gia Long sợ rằng tư tưởng của Bá-đa-lộc (người đã từng dạy dỗ Hoàng tử Cảnh) cũng sẽ ảnh hưởng đến những đứa con của hoàng tử. (Abre’ge’de l’histoire d’ Annam. Saigon, 1906).

  9. ^ Theo Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại (Tập 8), Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 11-12.



No comments:

Post a Comment